Bài trao đổi
Viết
tiểu phẩm gây cười cũng cần có một số kỹ năng, với vốn hiểu biết của mình, tôi
xin được trao đổi cùng các bạn mấy thủ pháp để viết tiểu phẩm có tính chất khôi
hài như sau:
Hiện tượng
cười ở người được chia thành ba
loai: Một là, cái cười có nguyên nhân về thể xác (do cảm giác nhột…). Hai là,
cái cười có nguyên nhân về mặt nhân tâm lý, tình cảm (do sự vui sướng…) Ba là,
cái cười do hiện tượng buồn cười gây ra. Ở đây nói về cái cười do hiện
tượng buồn cười gây ra. Và hiện tượng buồn cười nói ở đây là hiện
tượng buồn cười được kể thành truyện cười.
Ở
đây chỉ xin nói về cái cười do hiện
tượng buồn cười gây ra, được tác động bởi truyện cười chứ không nói đến những
cái cười do các nguyên nhân khác.
Tác
phẩm gây cười có thể chia ra 2 loại:
Thứ nhất là loại tác phẩm chỉ đơn thuần gây
cười: Đây là loại tác phầm khôi hài, không nhằm vào sự phê phán hay chỉ
trích một hiện tượng cụ thể nào. Đó được gọi là loại tác phẩm hài hước đơn
thuần.
Loại thứ hai là tác phẩm hài phê phán:
Là tác phẩm vừa mang yếu tố hài, song đồng thời cũng nêu lên những hiện tượng
tiêu cực, những thói xấu
“thông thường” của bất cứ ai (như tham ăn, sĩ diện, khoe khoang, mê tín, hà
tiện, nịnh hót, hãnh tiến…). Loại
này gọi là tác phẩm hài phê phán - đả kích. Nội dung thường nêu lên những hiện
tượng chung trong xã hội, nhằm giáo dục là chính chứ không chỉ đích danh vào
một người hoặc một nhóm người cụ thể nào.
1. Phóng đại: Là có mục đích lố bịch hóa cái
đáng cười – vừa làm nổi rõ cái thật như là mặt trái của hành vi nhân vật (nhờ
cường điệu nét bản chất), vừa làm nổi rõ cái giả như là mặt phải của hành vi ấy
(nhờ phép tương phản), khiến cho mâu thuẫn trong hành vi buồn cười tác động mạnh mẽ vào nhận thức, ý tưởng của
người nghe / người đọc. Chẳng hạn, trong ca dao (trào phúng) có
câu: “Lỗ mũi em tám gánh lông; Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho…”.
2. Tạo liên tưởng ngược: Đây là cách
nói làm cho người nghe, người đọc liên tưởng trái chiều mà cảm thấy tức cười.
Người viết nói A, người đọc lại hiểu sang B. Thậm chí viết rất nghiêm túc nhưng
người đọc lại hiểu sang nghĩa dung tục để rồi càng ngẫm càng thấy buồn cười.
Thể loại này ta thường gặp trong thơ của Hồ Xuân Hương (Bà chúa thơ nôm) “Một lỗ sâu sâu mấy cũng vừa
Thân em dính dáng tự bao giờ
Chành
ra ba góc da còn thiếu
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa
Mát mặt anh hung khi vắng gió
Che đầu quân tử lúc sa mưa
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng
Phì phạch
trong lòng đã sướng chưa?”
(Vịnh cái quạt)
3. Tạo sự hiểu lầm và bất ngờ: Người
viết tạo nên sự hiểu lầm cho độc giả về một vấn đề nào đó, làm cho người đọc,
người nghe cứ chú ý theo đuổi, nhưng rồi đột nhiên lại làm rõ ra sự thật hoàn
toàn trái ngược. Người đọc nín thở đợi, đến khi vỡ lẽ mới biết mình bị lừa, và
thế là cười.
MẦN RĂNG NHIỀU “DÚ DẬY”
Có một anh chàng
được mệnh danh là bợm rượu, một hôm đi “lai rai” về vào lúc nửa đêm. áo vắt
vai, hai chân đi “vắt sổ”, anh ta loạng choạng một hồi rồi cũng tìm được về
đúng ngõ nhà mình. Trời sáng trăng suông, mới đến cửa đã nhìn thấy màn buông
trăng trắng:
- May quá, hôm nay
về khuya vậy mà “bã xã” vẫn mở cửa- nghĩ vậy rồi anh ta vội vội vén mùng (*) chui vào. Sờ soạng một hồi rồi lầu bầu:
- Khỉ thật, mần răng mà hôm nay "Dợ"
mình nhiều “Dú Dậy”!.
Nhưng vì đã ngấm hơi
men, nên ngả lưng là ngủ tít. Sáng hôm sau tỉnh dậy mới biết là vào nhầm ổ của
chị lợn nái!.
4. Tạo ra vẻ ngây ngô: Đây là những
chuyện được xây dựng loại nhân vật ngây ngô hoặc giả ngây ngô - mặc dù bản thân
nhân vật thậm chí vẫn cho rằng lời nói và hành vi của mình là thông thái. Ví dụ:
Câu chuyện ĐẶC SẢN
Có vị lãnh đạo cấp trên đến thăn cơ sở,
trước hội nghị có đông đảo cán bộ chủ chốt của địa phương , ngài thao thao nói
về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nào là: Phải tích cực chuyển đổi cơ cấu cây
trồng, vật nuôi, phải tìm ra cây – con “mũi nhọn” để “xóa đói giảm nghèo, rồi
ngài bỗng dừng lại hỏi:
- Ở địa phương “ta”, các đồng chí đã tìm ra “cây, con mũi nhọn nào chưa?”
Một chức sắc của cơ sở thưa:
Báo cáo, khó lắm ạ! Nuôi gà, vịt thì cúm
gia cầm; nuôi gia súc thì “lở mồm, long móng”.... Trồng cây lương thực thì
không có diện tích đất; trồng mía, nhãn, xoài lại rất khó tìm đầu ra!
Bỗng ở mãi cuối hội trường có tiếng nói
“đổng” vọng lên: “ Chỉ trồng cây anh túc với nuôi con ca ve là lãi nhất !”.
Nghe thấy vậy, vị lãnh đạo cấp trên
vội “chộp” lấy ngay:
- Thì đấy, nếu trồng cây anh túc, nuôi
con ca ve mà có lãi, sao mỗi hộ chúng ta không trồng lấy vài sào anh túc, nuôi
lấy mấy đàn ca ve?. Mà hông biết món đặc sản ca ve ở quê ta ra sao, lần này các
đồng chí có thể cho tôi thưởng thức một bữa nhé!.
Không khí hội nghị khá nghiêm túc
nên chẳng có ai giám cười.
5. Sự
nhầm lẫn: Có những “cái nhầm” không chết người, nhưng nó lại gây nên lúng
túng đến tột đỉnh cho nhân vật. Sự nhầm lẫn có thể do nguyên nhân khiếm khuyết
về giác quan của nhân vật, nhưng cũng có khi chỉ là hậu quả của sự vội vàng,
bất cẩn. Nhưng dù với nguyên nhân nào thì nó cũng tạo nên sự tức cười cho người
chứng kiến. Điển hình như câu chuyện sau.
XIN BÁT CƠM NGUỘI
Những năm trước đây kinh tế khó khăn, vải
may quần áo còn phải mua bằng phiếu phân phối. Vì thế, có con đi bộ đội mang về
biếu bộ quần áo quân phục mới là oách lắm. Ông lão nọ cũng được con biếu một
bộ, cụ giữ cẩn thận lắm, chỉ khi nào có công việc quan trọng mới mang ra mặc.
Bữa ấy anh con trai về phép, có khách đến
chơi đông nên ông bố mang bộ quân phục của con ra mặc, vừa để hãnh diện với
thiên hạ.
Sáng hôm sau đi làm đồng về, cô con dâu
từ cầu ao bước lên lên, thấy một người mặc quân phục đang đứng đái, ngỡ là
chồng, cô ta quyết định trêu bằng một cú đã kheo, miệng còn đệm thêm câu:
- Cho xin bát cơm nguội!.
Bị cú đã bất ngờ, ông lão khuỵu chân
xuống, nước giải bắn tung túe. Nhìn lại mới biết là nhầm, cô con dâu chỉ còn
mỗi cách là bỏ chạy.
6. Yếu tố tục trong truyện cười
Về
khái niệm “ tục” ở đây cũng có hàm nghĩa tương tự như khái niệm “thô” ở “đặc
điểm thi pháp của câu đố” (Đố thô, giảng thanh” hoặc “Đố
tục, giảng thanh”)
Yếu
tố “ tục” trong truyện cười mang ý nghĩa có phần khác với yếu tố “tục” trong
câu đố. Trong câu đố, yếu tố “tục” thiên về miêu tả. Cái “tục” là một trong
những hướng liên tưởng, là sản phẩm của thứ cảm quan phát sinh từ bản năng.
Trong truyện cười, kể cả những truyện “Tiếu lâm” tục tĩu, cái “tục” không phải
là đối tượng miêu tả và cũng không phải là một hướng liên tưởng như trong thi
pháp về câu đố. Nó chỉ được sử dụng đơn thuần như một phương tiện để gây cười. Có
thể nói, nó chỉ là một phương tiện gây cười dễ dãi. Phải thừa nhận
là nghe / đọc những truyện cười có yếu tố “tục”, người ta luôn bật cười dễ dàng
mà không cần động não. Cái cười dí dỏm, hóm hỉnh, sâu sắc, do đó thường không
dung nạp yếu tố “tục”.
7. Hành vi buồn cười gắn với những nhược điểm thông
thường hoặc những tính cách có phần khác thường nhưng không bị coi là cái xấu như:
-
Những lầm lỡ thường tình mà ai cũng có thể mắc.
-
Những khuyết tật về thể chất (như thiểu năng về trí lực. cận thị, câm, điếc)
-Những
tính tình hoặc thói tật riêng của một lứa tuổi, một nghề nghiệp hay cả một cộng
đồng.
8.
Cách sử dụng ngôn ngữ trong truyện cười
Do
đặc điểm kết cấu truyện cười (có dáng dấp một màn kịch), đối thoại (bao gồm cả độc thoại) đóng vai trò quan trọng trong lời văn kể
chuyện. Có thể hình dung lời văn kể chuyện gồm hai phần: Phần
đối thoại là “tiêu điểm” của hành động và diễn hóa hành động của nhân vật; phần
còn lại của lời văn kể chuyện là những chỉ dẫn về hoàn cảnh và diễn hóa của
hoàn cảnh. Có thể nói, trong truyện cười, đối thoại lời nói của nhân
vật đóng vai trò chính trong việc thể hiện tính cách của nhân vật. Do
đó, đây cũng là chỗ kết tinh những nét đặc sắc của ngôn ngữ truyện cười. Đó là
tính giản dị, tự nhiên, sinh động và sắc bén… Trong đó, tất nhiên nét nổi bật
là tính chất hài hước là ở chỗ biết chắt
lọc từ nguồn khẩu ngữ dân gian.
Kết luận
So
sánh giữa truyện cười truyền thống (Tiếu lâm) với truyện cười hiện đại ta thấy
có một số khác biệt là, truyện cười truyền thống thường vận dụng phương thức lạ hoá cả về Phóng đại, Tạo sự việc bất
ngờ và Dựng hoàn cảnh phi thực tế; trong khi truyện cười hiện đại lại chủ yếu
dùng lối tạo sự việc bất ngờ là chính. Cho nên, xét mặt hiện thực, truyện cười
truyền thống không gần gũi với đời thường bằng truyện cười hiện đại. Nói cách
khác, truyện cười truyền thống thiên về tư duy hình tượng, đậm chất hư cấu nghệ
thuật, trong khi truyện cười hiện đại có phần thiên về tư duy lí tính, coi
trọng mặt lí lẽ và tính xác thực của sự vật, sự việc.
Tóm
lại, mấu chốt của nghệ thuật gây cười la ở chỗ phải làm sao cho cái đáng
cười tự
nó bộc lộ ra một cách cụ thể, sống động và thật tức cười để người
nghe / người đọc (truyện) tự mình phát hiện ra nó
mà cười.
Vì
khuôn khổ của bài viết, tôi đã cố gắng giản lược kết cấu đẻ thu gọn lý luận về
thủ pháp gây cười. Hy vọng giúp các bạn muốn sáng tác truyện cười tham khảo để
tạo nên tác phẩm của mình đạt được yêu cầu cả về nội dung và nghệ thuật.
(*) Ở Nam bộ gọi màn là mùng, ở vùng đồng bằng sông Cửu Long
người ta thường mắc mùng cho lợn vì ở
vùng này rất nhiều muỗi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét