Truyện
ngắn của Mạnh Nguyên
Cái năm mà tôi mới ti toe bước vào những
lớp học đầu cấp một, ngôi trường của xã cũng chỉ có khoảng hơn chục gian nhà
cấp bốn lộ cộ, cái thì lợp ngói, cái lợp rạ. Cho nên những lớp dưới như chúng
tôi thường phải lang thang đi học nhờ ở các đình làng hoặc nhà kho của hợp tác
xã. Mãi cho đến năm lớp ba, khi ấy trường mới xây thêm được một dãy nhà ngói,
nên chúng tôi được về học ở trường chính, đặt tại trung tâm xã.
Việc học hành ngày ấy không quá vất vả
như lũ trẻ bây giờ, mỗi ngày chỉ lên lớp có một buổi. Một buổi nghỉ ở nhà thì
bế em, chăn trâu hoặc ra con sông Đồng Tráng ở đầu làng mò rêu tóc tiên, rêu
đuôi chó về cho lợn; rỗi nữa thì chơi các trò bắt chim, đuổi bướm, đánh đáo,
đánh bi, hoặc đi câu cá rô đồng… Tuy học một buổi, nhưng giữa buổi được ra chơi
cũng khá dài. Chúng tôi thích nhất thầy Đĩnh, thầy chủ nhiệm năm lớp ba. Người
ta bảo, trước ngày đi dạy học thầy có một thời gian làm sư ở chùa, thảo nào mà
thầy hiền lắm, thầy chiều chúng tôi còn hơn cả chiều con. Có hôm giờ ra chơi đã
hết, nhưng ván đáo đánh chưa xong, chúng tôi nì nèo xin, thế mà thầy cũng cho
thêm mấy phút để đánh cho xong rồi mới vào lớp.
Trò chơi của lũ trẻ cũng không được hiện
đại như bây giờ. Bọn con gái thì đánh chuyền, đánh chắt, nhảy dây hoặc chơi trò
“bịt mắt bắt dê”. Con trai thì đánh bi, đánh đáo, đánh khăng, thổi diêm, búng
diêm và đá bóng bằng quả bưởi non hoặc lá chuối gói. Về sau nhà trường cấm
không cho đánh khăng vì đã có trường hợp que khăng văng vào mặt gây tai nạn.
Trò chơi đánh bi thì rõ rồi, ăn nhau thắng thua là bằng bi. Có đứa đánh giỏi,
ăn được đến hàng túi bi, nhưng chẳng may bất cẩn, đang ngồi học lại để sổ túi
quần, làm bi lăn ra khắp lớp, thế là bị thầy quở phạt vì tội gây mất trật tự an
ninh.
Đánh đáo thì ăn nhau bằng những đồng
xèng – một loại tiền cổ, đúc bằng đồng, mỏng,
giữa có cái lỗ vuông. Tôi thuộc loại còm, nhỏ người nhất hội nên ném đồng
xu cái chẳng mấy khi trúng, thậm chí
thường bị “tịt” nhiều hơn là thắng. Bởi thế, lúc nào cũng nhẵn túi xèng. May mà
có ông anh kề trên tôi, năm ấy anh đã học cấp hai, có biệt tài đánh đáo nên anh
thường cho tôi mỗi ngày vài đồng để chơi. Hôm nào anh không cho thì tôi ăn
trộm.
Chúng tôi còn có một trò chơi khá hấp
dẫn nữa, đó là đánh trận giả. Bắt chước các chú bộ đội về làng tập trận, rồi
cũng chia quân ra mà đánh, mỗi bên có một chỉ huy hẳn hoi. Hai bên giàn trận
đánh trực diện hoặc tản ra, chia địa bàn để chiếm lĩnh lẫn nhau. Cũng ẩn nấp,
luồn lách, thậm chí cả lăn lê, bò toài. Dùng bàn tay phát vào người đối phương,
anh nào phát trúng trước là thắng. Người bị phát trúng coi như đã “hy sinh”,
phải loại ra khỏi vòng chiến đấu.
Một hôm, cũng vào giờ ra chơi giữa buổi
học, chúng tôi rủ nhau chia quân đánh trận giả ngay trong sân nhà trường. Đúng
lúc đang tách các đôi ôm nhau để nhận quân thì Anh Cu Tộ xuất hiện.
*
Lại nói về Tộ, hắn hơn chúng tôi độ ba, bốn
tuổi. Nhưng nghe đâu gia đình hắn là dân ngụ cư ([1])
. Cha mẹ mất sớm, Tộ ở với bà ngoại đã già nên nghèo lắm, không được đi học.
Hằng ngày Tộ thường phải mò cua, bắt ốc, hái rau má để phụ giúp bà kiếm sống.
Quanh năm – từ mùa đông cho tới mùa hè, Tộ chỉ có mỗi bộ quần áo duy nhất. Cái
quần lá tọa hắn mặc hai gấu ống đều lằng nhằng răng cưa như cá rô đớp, mảnh vá
xem ra còn nhiều hơn là vải của thân quần. Còn cái áo nâu sồng may theo kiểu bà
ba, có hai cái túi to tổ bố ở hai bên vạt thì cũng chắng mới hơn, hàng cúc
trước bụng rơi gần hết vì hậu quả của trò chơi thổi diêm. Tuy nhiên, nó đã được
khổ chủ khéo léo thay vào những cái khuy mất cúc bằng các cọng rơm buộc vắt chéo, như vậy cũng đỡ phơi cái bụng
đồng đen ra nắng gió. Tộ có nước da đen nháy từ đầu cho đến tận ngón chân. Đã
thế khuôn mặt lại đầy những nốt rồi, đôi môi dày, duy chỉ có hàm răng và đôi
mắt là trắng ởn, mỗi khi hắn cười cứ lóe lên như ba cái đốm sáng trên mặt.
Có lần hứng lên hắn chỉ vào những cái nốt
ruồi trên mặt, hùng hồn tuyên bố:
- Tao là con ông Giời đấy. Vì được phái
xuống trần gian làm người phàm, nên Ngọc Hoàng Thượng Đế mới phải in nhiều cái
ấn lên mặt như thế này để đánh dấu.
Nói vậy, nhưng Tộ rất hiền, hắn thích chơi
với bọn trẻ chúng tôi và cũng sẵn sàng ra tay bảo vệ, nếu một trong số chúng
tôi bị trẻ làng khác bắt nạt. Mặc dù lớn hơn đến mấy tuổi, nhưng chẳng biết vì
đâu mà lũ chúng tôi cũng không gọi Tộ là anh, cũng không giám gọi hẳn là cu mà
cứ gọi là “anh cu Tộ”.
Tộ vẫy vẫy chúng tôi lại, bảo:
- Chúng mày cứ gộp nhau lại thành một phe
đi, chiến đấu với mình tao thôi. Nhưng mà không chơi kiểu phát vào đít nhau rồi
kêu “chết nhá!”, như thế nó “trẻ con” lắm. Bây giờ cho cả bọn bay đóng quân ở
phía sân trường, làm quân “đỏ”. Mình tao là quân “xanh”, chiếm lĩnh khu ải tre
bên kia đường. Vũ khí tấn công thì phải có “đạn dược” hẳn hoi. Nhưng quy định,
chỉ được dùng đạn là đất cát vàng ở bờ giao thông hào thôi đấy.
Hồi ấy Mỹ đã giục dịch ném bom ra miền Bắc
nên trường tôi có cho đào một dãy giao thông hào để khi có báo động thì tất cả
nhảy xuống tránh bom. Đất đáy hào đào lên là loại đất cát mềm nên có ném nhau
trúng người cũng không gây nguy hiểm.
Tộ lấy cái rổ hái rau má mà hắn còn chưa hái
được cọng nào, nhặt “đạn” vào đấy. Chúng tôi cũng giúp hắn một tay, loáng cái Tộ
đã có một cơ số đạn đủ cho “chiến dịch” phòng thủ. Hắn khệ nệ bê rổ “đạn” vào
sau lũy tre gai trong ải. Đợi Tộ hô: Xong!, thế là chúng tôi ào ạt tấn công. Phải
thừa nhận Tộ rất khỏe, sức ném của hắn xa gấp gần hai lần chúng tôi. Cho nên dù
đông, nhưng chúng tôi vẫn bị “đạn” của hắn chọi cho túi bụi, phải lùi lại giao
thông hào mấy lần để cố thủ.
Không biết đến lần xung phong thứ mấy, khi
chúng tôi ào lên thì không thấy Tộ phản kháng gì cả. Mãi cho đến lúc chúng tôi
đã áp sát gần các bụi tre thì bỗng nghe tiếng bẹt, bẹt!... Tôi còn chưa kịp
nhìn rõ vật gì đó đen đen rơi ngay xuống trước mặt thì cu Thịnh - chỉ huy - dẫn
đầu bỗng khựng lại, nó kêu to:
- Rút, rút, bom nguyên tử đấy!.
Cả lũ chúng tôi chưa biết “bom nguyên tử”
mà thằng Thịnh kêu là cái giống gì, nhưng cũng thấy hú hồn, đứa nào đứa nấy mắt
tròn, mắt dẹt co cẳng chạy thục mạng về, nhảy ào xuống giao thông hào để tránh.
Anh Cu Tộ nhô ra khỏi mấy búi tre, nhưng
hắn không đuổi nữa mà đứng trân ra đó, nhe hàm răng trắng ởn ra cười khùng
khục. Rồi hắn giơ cao hai nắm tay lên, mỗi bên cầm một nắm đen xì. Hóa ra hết
“đạn”, Tộ đã dùng chiêu bốc phân chó để “chiến đấu”.
Một hôm, biết tôi lúc nào cũng rỗng túi,
phải đứng ngoài đám đánh đáo vì không có xèng góp. Anh Cu Tộ mới kéo tôi ra
khỏi đám chơi và bảo:
- Ra tao nói cái này!
Thấy có vẻ bí mật, tôi vội theo hắn ngay và
hỏi:
- Cái gì mà quan trọng thế Anh Cu Tộ?
- Gượm đã, ra ngoài này tao mới nói, kẻo
bọn kia chúng nó biết.
Đã kéo tôi ra xa ở mức có thế gọi là an
toàn để tiết lộ tin “tối mật”, Anh Cu Tộ còn ghé sát tai tôi thì thầm:
- Mày có muốn kiếm xèng để đánh đáo không?
- Ở đâu? - Tôi vội sáng mắt lên, hỏi lại.
- Ở chùa! – Tộ vừa nói vừa chỉ về phía ngôi
chùa của làng tôi, bên kia bờ con sông đào phân cách giữa làng tôi với làng
Cao.
Đó là khu đất biệt lập ngoài cửa làng, ở
đấy có cả một quần thể thờ cúng tôn giáo và tâm linh tín ngưỡng. Hướng Tây gồm
có chùa - nơi thờ các tượng Phật; cạnh chùa là đình - nơi thờ cúng Thành Hoàng.
Ở phía sau đối diện về hướng Đông còn có một dãy nhà xây, lúc nào cũng đóng
cửa, nghe nói đó là khu nhà thờ Tổ hay điện thờ gì đó.
Tôi bĩu môi:
- Có mà nói phét, ở chùa thì làm quái gì mà
có đồng xèng!.
Tộ cười hề hề:
- Nhóc, thế là mày đếch biết gì rồi! Ở hậu
cung của chùa, các bát nhang đều có rất nhiều xèng dưới đáy. Mày cứ xắn tay áo,
khua thật sâu qua hết lớp tàn nhang thì thấy ngay. Nhiều nhất là ở cái bát
nhang to chính giữa, đặt ngay trước pho tượng Cửu Long vàng chóe ấy, dưới đáy
bát nhang này có mà vô thiên lủng là xèng!.
Tôi trợn mắt:
- Làm thế phải tội chết!.
Tộ lại cười khùng khục, hắn bảo:
- Nhát, đúng là thằng dái ớt. Tao đây này,
cứ mỗi lần thua sạch đồng con, tao lại vào vay các cụ. Thế mà có tội trạng qué
gì đâu!.
Tôi không giám cự cãi nữa vì sợ lại bị hắn
chê là đồ “dái ớt”. Nhưng tôi nhớ, ngày còn chưa đi học, tôi hay dắt em gái
lẵng nhẵng theo bà nội ra chùa vào những ngày rằm và mồng một để bà cầu kinh.
Chúng tôi chẳng hiểu cầu kinh để làm gì, chỉ thấy bà ăn mặc chỉnh tề, áo nâu, váy
sồi, đầu quấn khăn mỏ quạ, rồi vào ngồi cùng các cụ bà ở cái chiếu giải ngay
sau lưng sư thầy.
Sau một hồi chuông là tiếng củng([2])
vang lên cùng với tiếng đọc kinh của sư thầy. Tôi chẳng nghe rõ sư thầy độc cái
gì, vì chỉ thấy có tiếng ôm ôm, ang ang như tiếng ãnh ương sau mưa hòa cùng với tiểng củng. Sau một hồi
ngừng đọc, sư thầy lại gõ một tiếng keng dõng dạc vào cái chông đồng nhỏ thó để
ngửa ngay bên cạnh. Thế là các bà vãi ngồi đằng sau cùng vái rạp người, miệng
đồng thanh niệm một câu: “Nam
- mô - a - di - đà - phật!”.
Anh em tôi ngồi thập thò ở ngoài thềm chùa
hàng giờ không chán. Có lẽ động cơ chúng tôi kiên nhẫn đợi bà cũng không hắn là
để nghe các cụ “hát kinh”, mà vì một động cơ khác cơ. Ấy là kết thúc mỗi buổi
đọc kinh, bao giờ bà tôi cũng được chia lộc, thường thì bà mang ra cho hai anh
em một nắm bỏng nả. Ái chà, giữa buổi đang đói bụng mà được nắm bỏng nả, nhón
từng hạt cho vào miệng, cảm được cái mùi thơm ngầy ngậy của lúa nếp và vị ngọt
của bỏng nả thì mới khoái làm sao. Cũng có hôm bà được chia lộc có cả mấy quả
chuối tiêu, cái giống chuối tiêu của nhà chùa đượm mùi hương, vỏ thì vàng rộm,
bóc ra cắn một miếng, cứ là ngọt suốt từ
miệng cho đến tận dạ dày. Thảo nào người ta bảo “Ngọt như chuối chùa” cũng
phải.
Ở nhà, bà và bu tôi thường hay nhắc:
- Nơi thờ cúng, đình chùa, miếu mạo là
thiêng lắm. “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”!. Các con chơi nghịch thì cấm
có được nghịch bậy ở những nơi ấy mà phải tội.
Quê tôi là một vùng nông thôn đồng bằng Bắc
bộ - không riêng cái làng nhỏ gia đình tôi sinh sống mà gần như làng nào cũng
có nét hao hao giống nhau. Đều có một quần thể đình, chùa được tách ra ở một
khu đất đầu làng hoặc cửa làng. Ngoài ra, ở trong làng và ở các gốc đa, gốc
duối, gốc si còn thường có xây những bệ thờ ngoài trời, theo kiểu cây hương
nhưng thấp, các cụ gọi là "ông Đông đống”. Ở những gốc cây này, có chỗ còn thờ
cả các vị thần Khuyển; thần Hổ; thần Xà… (là những bức tượng chó, tượng hổ, tượng rắn
hổ mang bán thân, bằng đá). Đầu làng tôi cũng vậy, lối đi ra con sông Đồng
Tráng, dưới gốc cây đa cũng thờ một vị thần Khuyển. Không biết ông thần Khuyển này
đã có từ bao giờ, nhưng có nhiều tin đồn là thiêng lắm. Các cụ bảo, ông thần
Khuyển thường hiện về vào những đêm trái gió trở trời, ngài hiện
lên với nhiều bóng đèn xanh, đỏ, vàng, tím, cứ bay lơ lửng quanh gốc cây rồi
vào tận bìa làng. Lượn lờ đến hàng giờ, ấy là để canh cho bọn ma đói, quỷ dữ
khỏi vào làng quấy nhiễu.
Nghe vậy thì bọn tôi thích thú lắm, nhưng
lại thấy ơn ớn ở sống lưng nên những hôm tối trời, Ngài có hiện lên thì cho
kẹo cũng bố bảo đứa nào dám bén mảng ra đấy mà xem.
Ban ngày thì chúng tôi lại rất hay
đến gốc cây đa này, còn trèo lên, leo ra các cành la để ăn quả đa chín. Mỗi đứa
chọn lấy một cành, nhận là lãnh địa của mình, rồi lấy dao chích vào cành đa cho
chảy nhựa. Sau một ngày nhựa đa đông khô thì leo lên cạy, cho vào miệng nhai
như bọn trẻ nhai kẹo cao su bây giờ. Tất nhiên là nhựa đa thì đâu có ngọt, lúc
đầu nó hơi chan chát, nhai một lúc lại thấy có vị ngầy ngậy, bùi bùi. Thế là cứ
thi nhau trẹo mỏ ra mà nhai, nhai cho đến khi nào nhựa hết đàn hồi mới nhổ bỏ.
Có đứa nhai chán rồi mà nhựa vẫn còn dẻo nên tiếc rẻ, lè ra gói vào giấy cất đi
để mai nhai lại.
Chơi nghịch ở gốc đa, thậm chí trèo cả lên
cây, nhưng chúng tôi không bao giờ dám đụng đến chỗ ông thần Khuyển. Những
cành đa chìa ra trên đầu thần Khuyển cũng chẳng đứa nào dám trèo, sợ rằng ngồi
lên trên đầu thần thì phải tội.
Có lần chơi ở nhà cu Thịnh, tôi nghe bu nó
bảo:
- Ông thần Khuyển ở gốc đa Đồng Tráng làng
ta thiêng lắm. Ngài có nhiệm vụ trông nom, đuổi bọn ma đói và quỷ lang thang,
không cho chúng vào làng. Nhưng nếu ai đó xấc xược, giám báng bổ ngài thì cũng
coi chừng. Ngày xưa, đã lâu lắm rồi, người ta kể rằng có một ông uống rượu say,
lại giám ra gốc đa mà lỡm với Thần, lấy roi vụt vào thần mấy cái. Thế mà ngay
sáng hôm sau ngủ dậy, thần Khuyển liền vặn cho cổ ông ta không thể
quay đi quay lại được. Về sau phải mất con gà, chai rượu ra lễ tạ mới khỏi.
Đấy là câu chuyện huyền thoại chẳng biết
được truyền miệng từ đời nào. Nhưng nhỡn tiền thì chúng tôi đã thấy. Một hôm
thằng cu Tẹo, con bà Phó Đoàn ở xóm Đông cùng chơi với chúng tôi ở gốc đa, buồn
tè quá, cu cậu chẳng kịp chạy đi xa nên câu luôn vào gốc đa cho tiện. Lúc ấy chẳng
đứa nào nghĩ đến bên kia gốc đa là chỗ ngồi của thần Khuyển. Vậy mà mấy hôm sau
chim của cu tẹo bống lên, to lù lù như quả táo, làm cho nó đau, ngứa và đi tiểu
cũng rất khó khăn. Bu nó tra mãi mới biết nguyên nhân. Thế thì đúng rồi, đúng
là bị thần quở phạt rồi còn gì!.
Sau đấy, thày nó phải làm một mâm xôi, gà,
rượu ra tạ lỗi với Thần. Còn bu nó thì xuống tận quán ông lang Bồng ở chợ Phủ,
mua mất mấy đồng tiền thuốc Bắc, vừa sắc uống, vừa bôi cho nó mới khỏi.
Thế mà, bữa ấy chúng tôi đang chơi quanh
gốc đa thì Anh Cu Tộ xuất hiện, hai tay hắn tung tẩy hai củ khoai lang nướng.
Hắn trịnh trọng bảo:
- Tụi nhóc chúng mày trật tự để tao cúng
thần Khuyển!.
Nói rồi, hắn nhặt hai cái lá đa phủi sạch
bụi đất, đặt trước mặt tượng thần. Vuốt lại tóc và xóc lại bộ cánh cho gọn
gàng, quỳ gối xuống, hai tay chắp trước ngực mà khấn thế này:
- Lạy chín phương trời, lạy mười phương
đất!
Mày là thần khuyển của làng,
Nay tao
có mẩu khoai lang,
Tao mang ra đây cúng bái.
Nếu mày mà không ngần ngại
Về đây cùng chén với Tao!.
Khấn mời!...
Này khoang, này đốm, này vện,
Này đen, này xám, này vàng:
Về đây cùng thưởng khoai lang
Chớ đừng có xơi đồ bẩn…i…a!
Thầy sai:
Khoang, đen, đốm, vện, xám vàng
Xin đừng ăn cứt cho làng được yên!
Cẩn cáo!
Khấn xong, hắn thò tay nhặt luôn hai củ
khoai bỏ tót vào túi, tiện tay xách hai tai ông thần Khuyển nhấc bổng lên và
bảo:
- Chó má gì mà cả đời không tắm, nay thì
cho mày tắm này!
Nói rồi, hắn quăng luôn tượng ông thần
Khuyển rơi đánh tủm xuống mương nước trước mặt, về thẳng. Bọn chúng tôi đứa nào
đứa nấy mặt xanh như đít nhái, chuồn luôn vì sợ Thần liên lụy.
Nhưng sáng sớm hôm sau, không biết ai lại
đã vớt thần Khuyển lên, tắm rửa sạch sẽ rồi đặt lại đúng chỗ cũ.
Chuyện Anh Cu Tộ giám khấn bậy, rồi lại ném
cả thần Khuyển xuống mương nước nhanh chóng lan ra, cả làng ai cũng biết. Có
người bảo, cái thằng không cha không mẹ này liều thật. Phen này chắc thế nào nó
không có chết tươi đành đạch thì cũng “bán thân bất toại” cho mà xem!.
Nhưng rồi một ngày, hai ngày, một tuần, một
tháng và đến cả nửa năm qua đi Anh Cu Tộ vẫn sống nhơn nhơn, khỏe mạnh, chẳng
ốm đau gì sất. Thế là người ta tin, đúng Anh Cu Tộ là con ông Trời thật!.
Cũng từ đấy người làng có phần quý nể Tộ
hơn. Nhiều người kinh tế khá trong làng còn thỉnh thoảng mang cho Tộ mớ khoai,
bát gạo. Bọn trẻ chúng tôi cũng chẳng đứa nào bảo đứa nào, tự nhiên cất hắn cái
chữ “CU” đi để gọi Tộ là anh Tộ rất tử tế.
*
Năm 1965 Nhà nước có chủ trương vận động di
dân các tỉnh miền xuôi lên miền núi khai hoang. Phong trào ấy còn được gọi với
cái tên rất chính trị là: “Đi xây dựng kinh tế và phát triển văn hóa miền núi”.
Gia đình tôi cũng nằm trong diện tình nguyện đi “Xây dựng kinh tế và phát triển
văn hóa miền núi”. Tháng tư năm ấy cả nhà bồng bế nhau, gồng gánh cùng với hơn
mười hộ nữa lên tỉnh Lào Cai.
Sau ngày chúng tôi đi khỏi quê thì cuộc
chiến tranh phá hoại của Mĩ cũng đánh mạnh ra miền Bắc. Chúng tập trung đánh
các thành phố, thị xã và đặc biệt là các tuyến giao thông đường sắt, cầu
cống…Vì thế mà chúng tôi không thể về thăm quê cũ được nữa. Mấy năm sau thày
tôi và bác tôi mới quyết tâm về thăm quê. Chuyến ấy nguyên có đi
đường từ Lào Cai về đến ga tầu trung tâm Thành Phố cũng mất hàng tuần. Tầu hỏa
toàn đi vào ban đêm, nhưng luôn trải qua nhiều đoạn đường, cây cầu mới bị bom
Mĩ đánh phá. Những nơi chưa sửa kịp thì phải “tăng bo” (tức là đi bộ) đến hàng
chục cây số. Thế thì lũ nhóc như chúng tôi ai còn dám cho về thăm quê.
Mãi đến mười năm sau. Khi ấy tôi đã tốt
nghiệp trung cấp chuyên nghiệp và được điều về công tác ở huyện. Giữa những
ngày cuộc tổng tấn công giải phóng miền Nam của quân ta ào ào như vũ bão
thì tôi có lệnh lên đường nhập ngũ. Tuy không khí khẩn trương vậy, nhưng cơ
quan vẫn có đủ thời gian cho tôi nghỉ nửa cái phép để về thăm quê. Tôi khấp
khởi mừng, vì lâu lắm rồi, nay mới về chắc quê mình có nhiều đổi thay lắm.
Đến ga Thành phố, tôi còn phải đi xe ca 30
cây số nữa mới đến được làng mình. Xuống xe, tôi đã nhận ra con đường rẽ quen
thuộc, con đường này ngày bé chúng tôi đã từng đi học và theo người lớn
đi chợ tết. Chẳng mấy chốc tôi đã về đến đầu làng. Dưới con sông đào ngăn giữa
làng tôi với làng bên có rất đông thanh niên đang làm thủy lợi. Chẳng ai nhận
ra tôi và tôi cũng không nhìn thấy khuôn mặt quen nào cả. Hình như những người
làm thủy lợi ở đây toàn là con gái.
Đang đi trên cầu, tôi nghe thấy một giọng
con gái nói to:
- Ê, chúng mày ơi có chú bộ đội đấy. Đứa
nào dám tặng “Huân chương bùn” cho chú bộ đội không?
Rồi họ cười ré lên. Tôi hoảng thật sự nên
cuốc càng hăng hơn, nhoáng một cái đã đến cầu ao nhà. Nhận ra thím tôi đang
thái rau lợn, tôi bỏ mũ chào thím, thím cũng ngẩng lên, nhìn tôi một hồi rồi
dụi mắt:
- Ối giời, mày ở Lào Cai về hả cháu. Nhưng
đứa nào ấy nhỉ?
Tôi nói:
- Cháu Ngữ đây mà thím!
Thím vồ vội lấy tay tôi, nắn nắn rồi nói
như khóc:
- Chúng mày nhớn quá rồi, nhìn thì thím
nhận được, nhưng không biết là đứa nào, vì mấy anh em mày lúc đi cùng thau tháu
cả.
Mấy ngày ở quê, tôi nhận ra một điều khác
lạ, đó là cái gì cũng bé. Từ căn nhà cho đến bụi tre, cái ao làng cũng như được
thu gọn lại, không to lớn mênh mông như ngày nào nữa. Thì ra lúc đi khỏi làng
tôi còn nhỏ, nay đã lớn lên nên thấy cái gì cũng bé lại. Đặc biệt là không gặp được một đứa bạn trai cùng học
nào. Tối ăn cơm xong, ngồi uống nước với chú, tôi mới hỏi:
- Chú ạ, cháu về từ chiều qua mà không gặp
được đứa bạn trai nào là sao hả chú?
Chú tôi cười:
- Làm gì còn con trai. Cái lũ ngang ngang
tuổi anh chúng chẳng đi hết rồi. Phần lớn là đi bộ đội, đã có hai, ba đứa có
giấy báo tử về làng. Còn mấy thằng không đủ sức khỏe, với con nhà chính sách
thì cũng đi ra thành phố làm công nhân hết. Cả làng chỉ còn ba đứa là cu Ức
điếc, cu Minh câm và cái nhà anh Khấm tồ con ông Cải, chẳng đi được đâu mới ở
lại làng thôi.
Tôi chợt nhớ ra anh Tộ, liền hỏi:
- Thế còn anh Tộ?
- Tộ à, Tộ con giời chứ gì? – rồi chú nói tiếp:
- Sau ngày gia đình cháu đi khai hoang vài
ba năm gì đấy thì bà cu Tộ chết. Bà nó chết rồi, nó còn mỗi một mình, bọn thanh
niên trong làng thì lần lượt lên đường nhập ngũ. Thế là cu Tộ cũng viết đơn
bằng máu, gửi lên xã đòi được đi bộ đội. Người ta chưa gọi là vì xét nhà nó có
mỗi mình nó độc đinh, không có ai nối dõi. Nhưng trước sự khẩn khoản của nó rồi
xã họ cũng giải quyết. Từ ngày nó đi cũng không ai biết tin gì về nó nữa, nhà
nó là hộ ngụ cư, không có anh em, họ hàng thân thuộc nên thông tin về nó càng
không ai biết.
Sau này còn mấy dịp về quê, tôi cũng có hỏi
đến anh Tộ thì người ta bảo, anh ấy đi bộ đội, vào Nam chiến đấu. Nghe đâu sau giải
phóng lấy vợ ngay trong đó, rồi ở lại luôn một tỉnh xa lắm, mãi miền Tây Nam
bộ. Cũng có người lại bảo, hình như anh Tộ đã hy sinh rồi.
*
Gặp mặt đồng đội-D4 trên cao nguyên Lùng Phình |
Trước tình hình biên giới ngày càng căng
thẳng, các tỉnh giáp biên giới có chủ trương thành lập ở mỗi huyện một tiểu đoàn
để phòng ngự. Tiểu đoàn chúng tôi được thành lập vào tháng 8 năm 1978. Tháng
1/1979 được lệnh sáp nhập vào đội hình
chiến đấu của E 54 (quân thường trực địa phương, thuộc bộ CHQS tỉnh), chốt chặn
trên hướng Đông-Bắc thị xã tỉnh lị, kéo về đến Ngã ba Bản Vượng.
Từ trước tết Nguyên đán (Kỷ mùi) hoạt động
thám báo của Địch đã được tăng cường, liên tục thâm nhập vào nội địa ta. Có một
số thám báo địch bị ta bắt, chúng đã khai là đại quân của Họ sẽ tấn công Việt
Nam vào ngày X, nhưng sau đó lại có tin là sẽ tấn công vào đêm ngày Y…Vì vậy
thời gian này các đơn vị của ta phải liên tục nâng cấp báo động.
Bốn ngày sau, Tiểu đoàn bộ chúng tôi được
lệnh hành quân lên cách Ngã ba Bản Vượng khoảng 2 Km về phía Tây Nam .
Các đại đội bộ binh C1, C2 làm nhiệm vụ thê đội 1 đã được điều ra chốt trên các
điểm cao dọc bờ con sông Xanh và phía nam suối Bản La, sát cánh với D1. Phía
sau các đơn vị bộ binh là C4 hỏa lực cối 82 và 12 ly7 được bố trí ngay trước
mặt D bộ. Riêng C3 vẫn ở lại, làm nhiệm vụ thê đội 2.
Mới chân ướt chân ráo đến địa điểm tập kết,
chúng tôi đã được lệnh triển khai đào hầm, chỉ có bộ phận hậu cần và chỉ huy
Tiểu đoàn là được làm thêm các nhà lán, còn lại đều cắm lều, phủ tăng để tạm
tránh nắng mưa. Không khí chuẩn bị cho chiến dịch phòng ngự rất khẩn trương.
Một buổi tối, trước khi nghỉ sinh hoạt thì anh em trinh sát của Tiểu đoàn phát
hiện thám báo địch thâm nhập, nhưng cuộc vây bắt không thành công.
Cũng như mọi ngày, sau sinh hoạt tối anh em
lính chuyên môn chúng tôi lại cùng với chỉ huy chơi vài ván tiến lên. Nhưng hôm
ấy mọi người đều cảm giác có gì đó không bình thường. Khoảng 11 giờ đêm đã thấy
lác đác tiếng mìn nổ ở ngoài bờ biên. Mặc dù, hiện tượng mìn nổ ở biên giới thì
ngày nào cũng có, nhưng hôm ấy tiếng nổ nhiều hơn, thỉnh thoảng lại có những
loạt súng AK nổ xen kẽ. Mãi tới gần 12 giờ đêm chúng tôi mới đi nằm, nhưng rất
khó ngủ vì tiếng súng, tiếng mìn vẫn vọng vào mỗi lúc một dày hơn. Khoảng hơn 2
giờ sáng, tiếng súng AK càng dày và còn điểm thêm những loạt 12 ly 7. Cậu Tùng
liên lạc của tiểu đoàn xuống gọi tôi, nói là: “Tiểu đoàn phó nhắc chuẩn bị dụng
cụ quân y, có thể sắp có thương binh”.
Bốn giờ sáng, chuẩn bị xong bộ tiểu phẫu và
bông, băng, cáng, nẹp, tôi vào tấm phản trong lán ngả lưng. Nhưng chưa kịp chợp
mắt thì hàng loạt tiếng đạn cối nổ đầu nòng vang lên, ánh lửa từ trận địa hỏa
lực của ta - chỉ cách tiểu đoàn bộ chừng 500 mét chớp liên hồi, làm toàn bộ khu
vực Tiểu đoàn bộ sáng rực. Tất cả chúng tôi đều bồn chồn, chờ đợi một cái gì đó
sắp đến. Theo thông báo của Tiểu đoàn trưởng, điện từ các đơn vị báo cáo về là
địch đã tấn công sang với lực lượng rất lớn.
Năm giờ sáng, sở chỉ huy Tiểu đoàn nhận
được điện của ban tham mưu Trung đoàn thông báo, địch đã tấn công quy mô lớn
trên toàn tuyến biên giới. Chỉ sau đó ít phút, toàn bộ hệ thống thông tin hữu
tuyến của đơn vị cũng bị pháo đối phương dập đứt. B thông tin đưa cả mấy tiểu
đội đi khắc phục, nhưng do pháo địch bắn quá dày nên không thể nối thông được
tín hiệu với Trung đoàn. Tiểu đoàn trưởng lệnh cho vô tuyến hai oát lên sóng,
nhưng trung đội trưởng thông tin báo cáo, địch đã gây nhiễu rất mạnh, máy thông
tin của ta không thể thu được sóng liên lạc!.
Vậy là việc liên lạc với Trung đoàn đã hoàn
toàn gián đoạn, chỉ còn thông tin chỉ huy từ tiểu đoàn đến các đại đội được
thực hiện duy nhất bằng phương tiện chạy bộ.
Sáu giờ, trong lán chỉ huy, chính trị viên
trưởng Đào Liền vẫn cố xoay cái nút dò sóng của chiếc đài NATIONAL, nhưng vô
hiệu, vì toàn bộ sóng vô tuyến đã bị nhiễu rất nặng. Ngoài sân tiểu đoàn trời
đã sáng rõ. Khắp bốn phía là đủ loại tiếng nổ; trên không trung xuất hiện cả
một dàn tiếng hú nghe rất lạ. Tôi hỏi tiểu đoàn trưởng:
- Tiếng gì nghe lạ thế hả thủ trưởng?
Tiểu đoàn trưởng cười:
- Tiếng pháo trong tầm đấy, cậu chưa có
việc gì thì xuống hầm đi!.
Tôi vội sắp xếp lại bộ tiểu phẫu rồi tụt
xuống cái hố cá nhân gần đấy. Nhưng làm sao ngồi yên được khi mọi tiếng nổ vẫn
rền vang như sấm, nhất là cái tiếng hú chết tiệt cứ như xé nát không trung ngay
trên đầu. Tôi lại nhảy lên, đến bên tiểu đoàn trưởng. Ông đang viết một mệnh
lệnh ngắn gọn, đưa cho cậu lính thông tin rồi quay sang phía tôi:
- Chú ý nhé, khi nào nghe thấy tiếng “xoành
xoạch” mới là pháo nó nổ ở gần, khi ấy phải lập tức nằm xuống ngay. Còn cái
tiếng hu hu này là nó đang bay qua đầu ta thôi. Tôi phải ra C1 đây, cậu ở lại
với chính trị viên phó, rút vào khe đồi, chuẩn bị cấp cứu và chỉ đạo vận chuyển
thương binh, sắp có thương binh về rồi đó!.
Nói rồi, ông vơ vội tấm khăn dù quàng qua
cổ, vẫy cậu Hài liên lạc cùng đi ra hướng Ngã Ba.
Đúng như nhận định của tiểu đoàn trưởng,
chưa đầy mười phút phút sau, mười sáu thương binh cùng lúc được chuyển về. Ở
tiểu đoàn bộ lẽ ra còn phải có một y tá, nhưng do đơn vị mới thành lập nên chỉ
một mình tôi (quân y sỹ) phải đảm nhiệm tất cả. Tôi nhắc các đồng chí vận tải ở
lại để tiếp tục đưa thương binh về tuyến sau - sau khi tôi làm nhiệm vụ kiểm
tra vết thương, bổ sung cấp cứu, chống sốc tạm thời cho thương binh nặng và
phân loại để ưu tiên vận chuyển.
Trong suốt bốn ngày sau đó, địch dùng lực
lượng lớn áp đảo. Theo thông tin từ cấp trên thì chỉ riêng hướng đơn vị tôi đảm
nhiệm, địch đã huy động quy mô đến cấp quân đoàn đánh sang. Nhưng để phá được
phòng tuyến bờ biên của ta, địch còn dùng đến cả các loại động vật như trâu,
bò, ngựa, chó… tràn sang trước, tiếp đó là lực lượng dân binh hỗ trợ để càn phá
các trận địa vật cản.
Có một điều tôi không ngờ là ở chiến dịch
bảo vệ biên giới này, tôi lại gặp được anh Tộ trong một trường hợp khá là kỳ
ngộ. Hôm ấy đơn vị hành quân đến điểm cao 411, đang hí hoáy đào hầm thì tôi
nghe có tiếng người nói ở trên:
- Tay nào
có điếu cho tớ mượn làm một hơi.
Tôi quay lại, nhưng trời tối nên không nhìn
rõ ai:
- Bọn này không hút thuốc lào, ông có dùng
thuốc lá thì có đây - tôi trả lời.
- Ừ, lá cũng được, thèm quá!.
Nói rồi người ấy nhận điếu thuốc tôi đưa,
chụm tay lại che ánh sáng và cúi xuống một góc hầm để bật lửa hút. Qua đốm sáng
từ đầu điếu thuốc, tôi nhìn thấy khuôn mặt người này có gì đó quen quen, cộng
với giọng nói đặc miền quê đồng bằng Bắc bộ. Tôi hỏi:
- Anh ở đơn vị nào?
- Mình mới được bổ sung về làm B trưởng ở
C3 - người ấy trả lời.
- Thế à, nhưng từ đơn vị nào bổ sung về đây
thế?
- Lính tái ngũ, Quân khu III.
Nghe nói Quân khu III, tôi nghĩ ngay đến có
thể là đồng hương nên mới hỏi tiếp:
- Anh tên gì, quê ở đâu?
- Tên Tộ, quê Hải Phòng! Hỏi gì mà như thẩm
vấn thế?.
Tôi quên cả câu trả lời có vẻ dấm dẳn của
anh, vội hỏi tiếp:
- Có phải “Tộ con giời” không?
Người ấy vồ lấy hai vai tôi, ghé sát mặt
hỏi lại:
- Mày là đứa nào mà biết cả tên cúng cơm
của tao thế hả?
Vừa lúc ấy có tiếng rít và tiếng xoạnh
xoạch của một quả đạn pháo, anh vội kéo tôi ngồi thụp xuống cái hố đang đào dở.
Sau tiếng nổ đinh tai, đất đá rơi rào rào quanh mình, anh nhổm lên càu nhàu:
- Mẹ cha nó, tưởng không oánh đêm, thế mà
thỉnh thoảng lại choảng một quả vu vơ!.
Quay lại phía tôi, Tộ hỏi:
- Đằng ấy quê đâu mà biết tớ?
Đoán chắc là anh “Tộ con giời” rồi, tôi
mừng quá nắm lấy tay anh, vội xưng cả tên lẫn họ, rồi xưng luôn cả quê gốc ra
nữa. Vậy là chúng tôi nhận nhau khá chóng vánh.
Tộ tóm tắt kể tôi nghe, sau giải phóng miền
Nam
anh bị thương, vào trại an dưỡng mãi cho đến cuối 76 mới về quê. Đang định cuối
năm cưới vợ thì tình hình biên giới phức tạp, thế là được gọi tái ngũ và điều
thẳng lên đây. Tôi lại hỏi:
- Ngày ấy em nghe đồn là anh hy sinh rồi cơ
mà?
Vẫn cái cười khùng khục và giọng nói tưng
tửng như gần hai mươi năm về trước, Tộ bảo:
Chết thế qué nào được, tớ cao số lắm. Nếu
không đã tỏi từ trận Mĩ nó rải thảm B52 ở trường Sơn năm 68 rồi. Ừ mà chết cũng
hay, người ta nói, đời người có hai lần sướng nhất mà đếch biết gì. Ấy là lần
mới đẻ, cả làng đến chúc tụng, tranh nhau bế ẵm mà lúc ấy đã biết gì đâu. Rồi
đến lúc chết, người ta lại bu vào, kèn trống, kể lể thành tích, khóc than om
sòm, khiêng cáng trọng vọng, khi ấy cũng đếch biết gì cả, phí!. Hàn huyên một
hồi rồi Anh nắm lấy tay tôi giật thêm mấy
cái, bảo:
- Tớ ở B2 của C3, đóng ngay phía trước kia
kìa. Bây giờ phải về đôn đốc anh em khẩn trương chuẩn bị trận địa, kẻo sáng mai
lại chẳng có công sự mà phòng ngự. Chúng tôi chia tay nhau, hẹn có dịp sẽ gặp
lại.
Hôm sau địch pháo kích liên tục nên chúng
tôi không gặp được nhau. Rồi một tuần nữa qua đi… Một hôm tiểu đoàn phó từ chốt
hỏa lực về cho biết, đơn vị anh Tộ đã nhận lệnh tăng cường lên bảo vệ Trung
đoàn bộ.
Cuộc chiến bảo vệ biên giới năm ấy xảy ra
không dài, nhưng ác liệt. Sau chiến dịch, chúng tôi hành quân về địa điểm tập
kết. Khi ấy mới hay tin, đơn vị anh Tộ bị lọt vào vòng vây của đối phương. Tộ
trực tiếp chỉ huy ở mũi chính của chốt bảo vệ Trung đoàn. Bộ binh của địch tấn
công liên tục trong ba ngày liền, các chiến sĩ của ta chống trả rất quyết liệt.
Nhưng do lực lượng quá chênh lệch nên đến ngày thứ hai thì cả chốt chỉ còn
lại ba người, trong đó một đồng chí đã bị thương nặng, không còn khả năng chiến
đấu.
Để cản địch tràn lên chiếm chốt, anh Tộ
nghĩ ra cách đánh lừa chúng là lực lượng ta vẫn còn đông. Tộ bảo cậu chiến sĩ
còn lành lặn cùng với mình lấy các cành cây làm cọc, cắm dọc theo bờ giao thông
hào. Mỗi cái cọc cho đội một mũ và đặt bên cạnh một loại vũ khí khác nhau.
Những lúc địch tạm thời không tấn công thì Tộ tranh thủ chặt các ống nứa, mỗi
ống dài hơn một mét, rút sẵn chốt lựu đạn, buộc dây nụ xòe vào nhau rồi tống
đầy ống. Khi vào vào trận, mỗi lần địch ồ ạt xông lên đến cự li gần, Anh dùng
cả hai tay vung mạnh ống nứa, lựu đạn trong ống kéo nhau sổ tung ra, nổ dàn
hàng ngang, hất lùi bọn địch xuống chân chốt. Khi địch lùi xa vài chục mét thì
Tộ di chuyển về vị trí thuận lợi, dùng AK vừa quét, vừa tỉa; xa hơn nữa thì
dùng trung liên và súng cối. Cứ như vậy anh cùng chiến sĩ còn lại cầm cự không
để địch lên chiếm được mục tiêu.
Ngày thứ ba, sức khỏe của chiến sĩ bị
thương chuyển biến xấu, vết thương sưng tấy và sốt cao. Tộ quyết định, lệnh cho
đồng chí chiến sĩ còn lại bằng mọi cách phải chuyển được thương binh về tuyến
sau, còn mình thì tiếp tục ở lại để yểm hộ và cản địch.
Được biết, Tộ đã chiến đấu đến viên đạn
cuối cùng, rồi dùng quả lựu đạn “chia đôi”, anh dũng hy sinh chứ kiên quyết
không để rơi vào tay quân địch.
Phố Lu, đầu mùa Thu
năm 2015
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét