Tết Nguyên Đán là một trong những cái tết cổ truyền lớn nhất
trong năm (Âm lịch) ở một số nước
châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng. Trước tiên ta cần hiểu thêm về ngữ nghĩa
của cụm từ này.
Theo một số học giả thì từ tết được bắt nguồn bởi từ
“tiết” trong từ vựng Hán-Việt - tức là theo các tiết trong năm. Từ “tiết” này
dần dần được đọc trệch đi thành từ tết. Còn Nguyên Đán, đó là từ ghép giữa 2 từ
Hán-Việt: Nguyên là khởi đầu, Đán là buổi sáng sớm - Tức là khởi đầu của buổi
sáng sớm đầu tiên, ngày đầu tiên của năm nông lịch. Tuy nhiên, cho đến nay
trong chúng ta cũng còn nhiều người chưa hiểu được tết Nguyên Đán của Việt Nam có
từ bao giờ và bắt nguồn từ đâu. Vì vậy không ít người cho rằng, đây là cái tết
cổ truyền có nguồn gốc từ Trung Quốc. Bởi vì, lịch sử của Trung Hoa có viết là
từ thế kỷ thứ nhất (sau Công Nguyên), Nhâm Diên và Tích Quang - quan của nước Trung
Hoa sang Việt Nam, truyền cho dân Việt biết làm ruộng và một số sinh hoạt văn
hoá khác, trong đó có cả việc ăn Tết cổ truyền. Nhưng thực tế lại chứng minh, trước
khi người Trung Hoa sang đô hộ, dân tộc Việt đã có văn hóa nền nếp của vùng
nông nghiệp lúa nước và đã có việc tổ chức ăn tết Nguyên Đán theo phong tục đặc
sắc của mình. Dựa vào lịch sử dựng nước của người Việt thì họ Hồng Bàng (Kinh
Dương Vương) dựng nước từ năm Nhâm Tuất (2.879 trước Công nguyên). Vua Hùng là
con trai của Lạc Long Quân và là cháu nội của Kinh Dương Vương. Đến đời vua Hùng
thứ 6, nhà vua đã truyền ngôi cho con trai thứ 18 là Lang Liêu, vì Lang Liêu
được vua cho là người con hiền đức, có tài trị vì đất nước và đặc biệt là đã
làm ra sính lễ tết cổ truyền dâng lên vua cha từ sản vật nông nghiệp, mang biểu
trưng của cha (Trời là bánh dày tròn) và mẹ (Đất là bánh chưng vuông). Đất ở
đây không có nghĩa là trái đất, mà là những mảnh ruộng vuông vắn - nơi người
dân trồng cây lúa nước để nuôi sống chính mình. Bánh giày tượng trưng cho trời
tròn cũng không có nghĩa là bầu trời hình tròn, mà là hệ vòng quay 4 mùa: xuân,
hạ, thu, đông liên tiếp. Còn người Hoa lại giải thích vạn vật qua những hệ số,
bói toán trừu tượng, đôi khi như ma thuật rất xa xôi, khó hình dung. Như
vậy có thể nói Tết cổ truyền của Việt Nam đã hình thành từ
rất lâu, trước thế kỷ thứ nhất (sau Công Nguyên) - nghĩa là trước khi người
Trung hoa sang truyền bá văn hóa và hoàn toàn chứng tỏ không phải do người Hoa
khai hoá hay đồng hoá. Tuy nhiên, do cùng nằm chung vùng lục địa, lại nằm kề
nhau nên không thể không mang những ảnh hưởng văn hóa của nhau. Sau này, khi
Trung Hoa đô hộ nước ta nhiều năm liền, những ảnh hưởng đó càng có phần nhiều
hơn. Song về cơ bản thì bánh chưng, bánh dày là hoàn toàn đặc trưng của dân
tộc Việt. Trong ngày Tết cổ truyền có thể thiếu câu đối đỏ nhưng không thể
không có bánh chưng xanh để cúng tế tổ tiên.
Tuy nhiên, trong các sách viết về văn hóa Việt Nam đều cho
rằng vào thời cổ, năm mới ở phương Nam bắt đầu từ tháng Tí, tức tháng Một
(tháng 11 âm lịch), về sau do ảnh hưởng của Trung Hoa ta mới lấy tháng Dần
(tháng Giêng năm âm lịch) làm tháng đầu năm. Đến nay cũng vẫn còn một vài dân
tộc thiểu số và một số vùng ở Việt Nam duy trì tục đón năm mới vào tháng Tí. Đây
cũng là điều bình thường, vì một số cộng đồng quốc gia ở gần nhau thường có sự
giao thoa về văn hóa. Mặc dù chịu ảnh hưởng của Trung Hoa trong việc xác định
mốc đầu năm, song Tết cổ truyền Việt Nam vẫn mang trọn vẹn đặc trưng văn hóa
truyền thống của dân tộc Việt.
Về đặc trưng đối với tết Nguyên Đán cổ truyền của Việt Nam,
đó là nếp sống cộng đồng. Trước và sau ngày tết chính (ngày mùng 1) đã diễn ra
những hoạt động như 23 tháng chạp – lễ tiễn ông Táo lên chầu trời, người dân
bắt đầu nô nức đi chợ tết. Sau đấy là chung tay mổ lợn, gói bánh chưng, dọn
dẹp, trang trí nhà cửa; sửa sang quét dọn mộ phần của tổ tiên, ông bà…và khấn
mời hương hồn người thân đã khuất quy tụ về linh sàng, để con cháu được tri ân
công đức.
Đây cũng
là dịp duy nhất trong năm có sự sum họp đầy đủ mọi thành viên trong gia đình;
con cháu dù đi làm ăn xa bao nhiêu cũng cố gắng có mặt sum họp vào dịp này.
Tục chúc
Tết cũng có nhiều sắc thái, đó là sự bày tỏ tình thương yêu thắm thiết và mong
muốn cho mọi người được như ý qua lời chúc. Từ quan niệm “có thờ có thiêng - có
kiêng có lành”, người Việt còn rất coi trọng tục xông đất ngày Tết, đây là việc
làm có ý nghĩa và trang nghiêm. Ngay từ nửa đêm sau lễ giao thừa đánh dấu một
năm đã qua, nhường cho một năm mới tốt đẹp đến, nhà ở được coi như hoàn toàn
đổi mới, người bước chân tới xông đất sẽ là sứ giả đem sự may mắn đến nhà. Do
đó, mọi người cũng cân nhắc kĩ về nhân phẩm, chức phận, cũng như tính tình, vận
hạn khi mong cầu người đến xông nhà ngày đầu năm. Người đến xông nhà thường chỉ
đến thăm, chúc mừng khoảng chừng năm đến mười phút chứ không ở lại lâu, cầu cho
mọi việc trong năm của gia chủ được hanh thông, trôi chảy.
Trước đây tết Nguyên Đán cũng chỉ gói gọn
trong 3 ngày là mùng một, mùng hai, mùng ba. Trong ba ngày tết, việc chúc tết
với đấng sinh thành, dưỡng dục cũng được quy định tuần tự như sau: “Mồng một là
Tết nhà cha”, sáng mùng một sau khi lễ gia tiên thì cha mẹ được mời ngồi vào
ghế để cho con cháu lần lượt mừng tuổi, chúc Tết. Với bề trên, để mừng tuổi con
cháu cũng là những bao lì xì đỏ tươi làm rạng ngời ánh mắt con trẻ. “Mồng hai
nhà mẹ”, vợ chồng, con cháu phải sang nhà ngoại để mừng tuổi chúc Tết. Cũng
tuần tự những nghi thức như bên nội vậy. Sau đó thì nán lại để ăn cỗ đầu xuân nhằm
thắt chặt tình cảm gia đình. “Mồng ba Tết thầy”, sau công ơn đấng sinh thành
dưỡng dục là ơn dạy dỗ của thầy cô. Đến mừng tuổi chúc Tết thầy cô là một phong
tục đẹp, nói lên tư cách đạo đức và truyền thống “tôn sư trong đạo” của dân tộc
Việt Nam.
Ngày nay,
phát huy từ truyền thống tri ân các thế hệ tiền bối, nhiều cơ quan, đơn vị,
doanh ngiệp và các tổ chức xã hội cũng nhân dịp này tổ chức gặp mặt, giao lưu, tặng
quà thể hiện sự tôn kính đối với những người thuộc thế hệ thế hệ đi trước đã được
nghỉ theo chế độ.
Từ
quan niệm, tết Nguyên Đán là một mốc thời gian chuyển giao của 1 năm; giao thừa
được coi như phút giao hòa trời - đất, nó thiêng liêng và ảnh hưởng đến cả một
năm mới tiếp theo. Từ quan niệm “vạn sự khởi đầu nan” mà mọi người đều muốn làm
tất cả những gì tốt đẹp trong thời khắc thiêng liêng, trang trọng này. Ngoài các
tục lệ như đã nói trên đây thì cũng còn những việc làm chỉ mang ý nghĩa biểu
trưng, như chọn hướng xuất hành, hái lộc đầu năm… đều được mọi người chọn và
thực hành với niềm tin tâm linh, cẩn trọng. Ví như việc xuất hành, là sau giây
phút giao thừa, mỗi gia đình thường cử một người xuất hành (bước ra khỏi nhà)
trong giây phút mới mẻ ngày đầu năm. Xuất hành phải xem lịch để chọn hướng tốt,
hợp với tuổi của mình, ngụ ý để mang đến điều may mắn mỗi khi bước chân ra khỏi
nhà trong năm mới. Sau khi xuất hành xong, người ta có thể quay về tự xông nhà.
Việc hái lộc cũng vậy, nhân trong lúc xuất hành, người xuất hành có thể bứng một
chút lộc non từ một cây trên đường đi, mà đó là cây khỏe mạnh, xanh tốt để coi
đó như nguồn công lực đưa về đặt lên bàn thờ. Hy vọng sẽ là nguồn bồi bổ sức
khỏe cho cả gia đình trong năm mới. Hành động này hoàn toàn khác biệt với cách
bẻ cành, chặt tán thô bạo của một số người cũng gọi là “hái lộc” ngày nay.
Tết
Nguyên đán là một phong tục cổ truyền thấm đậm bản sắc dân tộc; là lễ hội cổ
truyền lớn nhất, thiêng liêng nhất đối với người Việt Nam. Điều ấy ai cũng
biết. Nhưng từ trong sâu thẳm của người Việt ngày nay dường như ai cũng thấy
còn gợn lên sự trăn trở, vì Tết nay còn có những điều không giữ được sự trong
sáng như xưa. Có những phong tục giờ đây đã bị biến tướng dẫn đến hành vi tiêu
cực.
Thiết nghĩ, cuộc sống hôm nay tuy có khác nhiều so với ngày xưa cả về vật chất và tinh thần, nhưng người Việt Nam ta thì mãi mãi vẫn thế, vẫn mang trong mình những tâm hồn, cốt cách, phong tục, tập quán rất đặc trưng. Đó là chỉ có thể phát huy những gì thuộc về giá trị văn hóa, giá trị đạo đức truyền thống do gạn đục khơi trong mà có. Hy vọng rằng trong các phong tục đẹp của tết cổ truyền dân tộc sẽ mãi mãi được gìn giữ, phát huy trong mỗi gia đình và cộng đồng. Tết cứ đến và qua đi cùng quy luật tuần hoàn của đất trời, nhưng hương vị tết Việt Nam thì không bao giờ có thể thiếu trong tâm linh và cuộc sống của mỗi gia định Việt Nam./.
Mạnh Nguyên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét