Cả Mõ

camoz77.blogspot.com/

28 tháng 6 2014

GIA ĐÌNH VÀ XÂY DỰNG VĂN HÓA GIA ĐÌNH

(Bài viết nhân ngày gia đình Việt Nam - 28/6)

            Theo triết lý của xã hội học thì gia đình là tế bào của xã hội. Vì vậy, muốn có một xã hội tốt đẹp thì trước hết phải có nhiều gia đình chuẩn mực văn hóa. Gia đình có thể chỉ là một tập hợp nhỏ, gồm hai vợ chồng với một hai đứa con. Cũng có thể là một tập hợp lớn gồm nhiều thế hệ: ông bà, cha mẹ, các con, các cháu, các chắt…
Xưa kia, “tam đại đồng đường”, “tứ đại đồng đường” – nhiều thế hệ sống chung dưới một mái nhà, thường là điển hình của những gia đình có phúc đức, có nền nếp gia phong.
Ngày nay, do quá trình phát triển, cấu trúc của gia đình có thể khác đi đôi chút. Nhưng bất kể thế nào, con người sinh ra, ai cũng cần có một gia đình. Một gia đình đúng nghĩa, thì đó chính là nơi để con người ta được thỏa mãn mọi nhu cầu.
Ngay từ khi sinh ra, nơi tiếp xúc đầu tiên của mỗi cá thể con người chính là gia đình. Bởi vậy, gia đình là môi trường sống đầu tiên và quan trọng nhất, tiếp sau đó mới đến xã hội. Rồi ngay khi con người hòa nhập vào cuộc sống xã hội để mưu sinh, để khẳng định mình, để làm “ông nọ bà kia”, thì gia đình vẫn luôn là môi trường không thể thiếu. Trước mọi sóng gió cuộc đời, gia đình phải luôn là nơi bến đậu an bình nhất, là “tổ ấm” hạnh phúc, là nơi chia sẻ mọi nỗi buồn - vui; sự thành đạt cũng như nỗi bất hạnh của mỗi con người.
Tuy nhiên, nếu một gia đình mà “Nhà kia lỗi phép, con khinh bố; Mụ nọ chanh chua, vợ chửi chồng”; một gia đình mà bề trên sống không mẫu mực, không hết lòng vì con cháu; một gia đình mà đồng tiền ngự trị trên mọi giá trị tinh thần, văn hóa, đạo đức… thì “gia đình” ấy đã tự đánh mất đi vai trò là tế bào xã hội lành mạnh của chính nó.
Để tạo dựng một gia đình, cha ông ta đã đưa ra rất nhiều quy chuẩn như: “Gia giáo” - tức là cách thức giáo dục con cháu của mỗi gia đình theo một chuẩn mực nhất đinh. Trong đó, nội dung chủ yếu là giáo dục về đạo đức, phẩm chất. Đa số “con nhà có “gia giáo” đều trở thành những “người tử tế”. “Gia lễ” là những quy định chặt chẽ về đường ăn nết ở của mỗi thành viên trong gia đình, nó đòi hỏi ngôn ngữ trong nói năng, cử chỉ điệu bộ, cách ăn mặc phục sức với từng cấp bậc, thành viên trong gia đình phải có phép tắc. Không thể “cá đối bằng đầu”, “cá mè một lứa”!. Khổng Tử nói: “Đạo đức nhân nghĩa, phi lễ bất thành”. Gia giáo và gia lễ của từng gia đình có thể khác nhau, nhưng nhìn chung,  người ta lấy chữ “Nhân Từ” để dạy cho bậc làm cha mẹ; lấy chữ “Hiếu” dạy cho con cháu; lấy chữ “Nghĩa” dạy cho kẻ làm chồng; lấy chữ “Đoan chính” dạy cho người làm vợ; lấy chữ “Lương” (hiền lành) dạy cho người làm anh, chị; lấy chữ “Đễ” (nhún nhường) dạy cho kẻ làm em.
Muốn thực hiện được “gia giáo”. “gia lễ” thì phải có “gia pháp”.. Gia pháp nhằm bảo vệ, đề cao uy thế của người chủ gia đình, đồng thời duy trì sự thống nhất chung trong nếp sống gia đình.
“Gia phong” (hay còn gọi là nếp nhà) là lề thói mà mỗi thành viên trong gia đình phải noi theo - có thể coi đó là bản sắc của một gia đình. Theo Giáo sư Đào Duy Anh, gia phong là sự tổng hòa  về thành quả của gia giáo, gia lễ, gia pháp. Gia phong giúp chuẩn bị một cách tốt nhất cho mỗi một con người, để họ trở thành hữu ích, khi hòa nhập vào môi trường xã hội.
Đã có một thời, cứ nói đến cái gì thuộc xã hội cũ, người ta đều cho là lạc hậu, là phải xóa bỏ. Gia giáo, gia lễ,… cũng bị xếp chung số phận đó. Nhiều người lầm tưởng có thể dùng “giáo dục xã hội” thay thế cho giáo dục gia đình.  Vì vậy mà vai trò gia đình bị hạ thấp. Từ đó dẫn đến coi nhẹ vai trò của cha, mẹ; con cái chỉ tuân theo những gì “xã hội” giáo dục. Thậm chí có lúc con cái “phê phán” cha, mẹ, ông, bà là  “cổ hủ lạc hậu”, là “lỗi thời”!... Chữ “hiếu” tuy vẫn còn được nhắc đến trong lớp người trẻ, nhưng “thực hiếu” ra sao thì ít người hiểu được cặn kẽ. Do khuôn khổ của bài viết, xin được bàn riêng về chứ “Hiếu” ở một dịp khác.
Ngày nay, vấn đề giáo dục đã được coi là vấn đề của toàn xã hội. Trong đó việc giáo dục một con người phải thực hiện đồng bộ ở cả 3 môi trường, đó là gia đình, nhà trường và xã hội. Tuy nhiên vấn đề giáo dục gia đình luôn có một tầm quan trọng đặc biệt. Vì, giáo dục gia đình được thực hiện ngay từ khi con người mới chào đời. Giai đoạn vị thành niên - một giai đoạn quan trọng trong quá trình hình thành nhân cách, con người lại có thời gian sống nhiều nhất với gia đình; sự ảnh hưởng về nền nếp gia giáo của mỗi gia đình luôn tạo nên một dấu ấn cực kỳ sâu sắc trong tiềm thức và tác động khá rõ vào quá trình phát triển nhân cách.
Tuy nhiên, xây dựng “văn hóa gia đình” phải bắt đầu từ bên trên, chứ không phải từ bên dưới. Nghĩa là phải dạy cho người làm cha, làm mẹ cách thức và đạo lý làm cha, mẹ ngay từ khi họ được đóng vai trò phụ huynh. Rồi phải dạy họ cách thức làm con, làm em – để họ biết nêu gương sáng cho chính con, em họ. Thậm chí còn phải làm ngược lại, dạy cách làm tròn phận sự con - em trước, rồi mới đến cách làm cha, làm mẹ. Phải làm cho gia đình thực sự trở thành nền tảng đạo đức của xã hội.
Phong trào xây dựng “gia đình văn hóa” đang được Đảng ta phát động, đây sẽ là động lực để phát huy vai trò tích cực của mỗi cá nhân trong xã hội, giữ gìn được truyền thống nhân ái, đạo đức, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người. Nội dung chủ yếu ở đây là xây dựng nếp sống cá nhân, nếp sống gia đình và nếp sống xã hội. Bác Hồ dạy: "Hạt nhân của xã hội là gia đình". Xây dựng gia đình văn hóa mới chính là xây dựng con người mới - bởi con người vừa là sản phẩm của xã hội, vừa là chủ thể có ý thức của xã hội.
                                                                                                                                                  Mạnh Nguyên


26 tháng 6 2014

THÂN PHẬN MÕ LÀNG

Xưa mang danh phận mõ làng
Chiếu theo thứ hạng đứng hàng dân đen
Mỗi lần có lệnh quan trên:
Hộ đê, cứu lụt, thu tiền, bắt phu…
Việc làng Đông, Hạ, Xuân, Thu
Hội hè đình đám chẳng trừ việc chi
Miệng rao, tay gõ, chân đi
Lệnh vua qua Mõ thực thi dân tòng
Hội đình cả xã ngóng trông
Mõ mà chưa đến quan không được ngồi ­[1]
Sắp mâm thì cũng Mõ thôi
Miếng ngon nếm trước xong rồi mới dâng
Cỗ đình riêng Mõ một mâm
Chẳng chung chạ, cũng chẳng cần đợi ai
Hóa ra phận Mõ lại oai…!
Hỏi trong làng xã có ai sánh bằng?.

                                 Mạnh Nguyên




[1]Mõ là người trải chiếu cho làng, Mõ chưa đến thì chiếu ắt chưa trải cho nên các quan đến cũng chẳng có chỗ mà ngồi.

22 tháng 6 2014

21 tháng 6 2014

CỰU BINH KHUYẾN MÃI CHỤP HÌNH


Được tin khuyến mãi chụp hình
Mấy ông lính khọm rập rình đến xem
Thợ hình giọng ngọt như kem:
Ưu tiên các bác, chúng em nhiệt tình
Hình con vừa đẹp vừa xinh
Biếu không các bác dán hình sổ “son”.
Xong rồi ai tính thiệt hơn?
Kính mời các bác in thêm ảnh thờ,
Bảng lưu niệm nữa, một tờ!
Mấy khi có dịp, có cơ thế này.
Phần “thêm” mới thật là hay…
Dăn trăm một kiểu trả ngay, trao liền
Không in kể cũng thật phiền
In thì cháy “dạ dày” tiền sao đang!

                                    M.N

14 tháng 6 2014

CUỘC CHIẾN KHÔNG CÂN SỨC

(Trong loạt bài hồi ức về cuộc chiến biên giới phía Bắc-1979)

 Trước tình hình biên giới ngày càng căng thẳng, tỉnh Hoàng Liên Sơn có chủ trương thành lập ở mỗi huyện 1 tiểu đoàn để tăng cường cho phòng ngự. Tiểu đoàn chúng tôi được thành lập vào tháng 8 năm 1978, mang phiên hiệu D4 Bảo Thắng. Tháng 1/1979  được lệnh sáp nhập vào đội hình của Trung đoàn 254 (quân thường trực địa phương, thuộc bộ CHQS tỉnh Hoàng Liên Sơn), chốt chặn trên hướng Đông-Bắc thị xã Lào Cai kéo về đến Ngã ba Bản Phiệt.
Từ trước tết âm lịch (Kỷ mùi) hoạt động thám báo của phía Trung Quốc đã được tăng cường, liên tục thâm nhập vào nội địa ta. Một số thám báo Trung Quốc bị ta bắt đã khai là Trung Quốc sẽ tấn công Việt Nam vào 10/2, nhưng sau đó lại có tin là sẽ tấn công vào 13/2…Vì vậy thời gian này các đơn vị của ta phải liên tục nâng cấp báo động.
Đêm 14/2, Tiểu đoàn bộ được lệnh hành quân lên Làng Ói, cách Ngã ba Bản Phiệt khoảng 2 Km về phía Tây Nam. Các đại đội bộ binh C1, C2 làm nhiệm vụ thê đội 1 đã được điều ra chốt trên các điểm cao, trên bờ sông Nậm Thi và phía Nam suối Bản Quẩn từ nhiều ngày trước đó, sát cánh với các đơn vị thuộc D1 hất lên cánh cung phía Mường Khương. Ngay sau các đơn vị bộ binh là C4 hỏa lực cối 82 và 12 ly7 được bố trí phía trước mặt D bộ. Riêng C3 vẫn ở lại, làm nhiệm vụ thê đội 2.
Mới chân ướt chân ráo đến địa điểm tập kết, chúng tôi đã được lệnh triển khai đào hầm ngay, chỉ có bộ phận hậu cần và chỉ huy Tiểu đoàn là được làm thêm các nhà lán, còn lại đều cắm lều, phủ tăng để tạm tránh nắng mưa. Không khí chuẩn bị cho chiến dịch phòng ngự rất khẩn trương. Chập tối ngày 16/2 anh em trinh sát của Tiểu đoàn phát hiện thám báo địch thâm nhập, nhưng cuộc vây bắt không thành công.
Cũng như mọi ngày, sau bữa tối anh em lính chuyên môn chúng tôi lại cùng với chỉ huy chơi vài ván tiến lên. Nhưng hôm ấy (16/2) mọi người đều cảm giác có gì đó không bình thường. Khoảng 11 giờ đêm đã thấy lác đác tiếng mìn nổ ở phía ngoài bờ biên. Thực ra, hiện tượng mìn nổ ở biên giới thì ngày nào cũng có, nhưng hôm ấy mìn nổ nhiều hơn, thỉnh thoảng lại có những loạt súng AK nổ xen kẽ. Mãi tới gần 12 giờ đêm chúng tôi mới đi nằm, nhưng rất khó ngủ vì tiếng súng, tiếng mìn vẫn vọng vào mỗi lúc một dày hơn. Khoảng hơn 2 giờ sáng, tiếng súng AK nổ khá dày và còn điểm thêm những loạt 12 ly 7. Cậu Tùng liên lạc của tiểu đoàn xuống gọi tôi, nói là: “Tiểu đoàn phó nhắc anh chuẩn bị dụng cụ quân y, có thể sắp có thương binh”.
Dân quân nữ Việt Nam và tù binh Trung Quốc (2/1979)-Ảnh minh họa
4 giờ sáng, chuẩn bị xong bộ tiểu phẫu và bông, băng, cáng, nẹp, tôi vào tấm phản trong lán ngả lưng. Nhưng chưa kịp chợp mắt thì hàng loạt tiếng nổ đầu nòng của pháo cối vang lên, ánh lửa từ trận địa hỏa lực của ta - chỉ cách tiểu đoàn bộ chừng 500 mét chớp liên hồi làm toàn bộ khu vực Tiểu đoàn bộ sáng rực. Tất cả chúng tôi vào vị trí, ai cũng tỏ ra bồn chồn, chờ đợi một cái gì đó sắp đến. Theo thông báo của Tiểu đoàn trưởng Lều Văn Tân, điện từ các đơn vị báo cáo về là phía Trung Quốc đã tấn công sang với lực lượng rất lớn.
5 gời sáng, sở chỉ huy Tiểu đoàn nhận được điện từ ban tham mưu Trung đoàn thông báo, Trung Quốc đã tấn công quy mô lớn trên toàn tuyến 6 tỉnh biên giới. Chỉ sau đó ít phút, toàn bộ hệ thống thông tin hữu tuyến của đơn vị cũng bị pháo đối phương dập đứt. Đơn vị thông tin đưa cả mấy tiểu đội đi khắc phục, nhưng do pháo địch bắn quá dày nên không thể nối lại được thông tin với Trung đoàn. Tiểu đoàn trưởng lệnh cho vô tuyến 2 oát lên sóng. Nhưng trung đội trưởng thông tin báo cáo, địch đã gây nhiễu rất mạnh, máy thông tin của ta không thể nào thu được sóng liên lạc!.
Vậy là việc liên lạc với Trung đoàn đã hoàn toàn gián đoạn, chỉ còn thông tin chỉ huy từ tiểu đoàn đến các đại đội, nhưng cũng gián đoạn liên tục nên phải sử dụng đến cả liên lạc chạy bộ. 
6 giờ, trong lán chỉ huy, chính trị viên trưởng Đào Văn Nện vẫn cố xoay cái nút dò sóng của chiếc đài NATIONAL, nhưng vô hiệu, vì toàn bộ sóng vô tuyến đã bị nhiễu rất nặng. Ngoài sân tiểu đoàn trời đã sáng rõ. Khắp bốn phía là đủ loại tiếng nổ; trên không trung xuất hiện cả một dàn tiếng hú nghe rất lạ. Tôi hỏi tiểu đoàn trưởng Tân:
- Tiếng gì nghe lạ thế hả thủ trưởng?
Tiểu đoàn trưởng cười:
- Tiếng pháo trong tầm đấy, cậu chưa có việc gì thì xuống hầm đi!.
Tôi vội sắp xếp lại bộ tiểu phẫu rồi tụt xuống cái hố cá nhân gần đấy. Nhưng làm sao ngồi yên được khi mọi tiếng nổ vẫn rền vang như sấm, nhất là cái tiếng hú chết tiệt cứ như xé nát không trung ngay trên đầu. Tôi lại nhảy lên, đến bên tiểu đoàn trưởng. Ông viết một mệnh lệnh ngắn gọn, đưa cho cậu lính thông tin rồi quay sang phía tôi:
- Chú ý nhé, khi nào nghe thấy tiếng “xoành xoạch” mới là pháo nó nổ ở gần, khi ấy phải lập tức nằm xuống ngay. Còn cái tiếng hu hu này là nó đang bay qua đầu ta thôi. Tôi phải ra C1 đây, cậu ở lại với chính trị viên phó, rút vào khe đồi, chuẩn bị cấp cứu và chỉ đạo vận chuyển thương binh, sắp có thương binh về rồi đó!.
Nói rồi, ông vơ vội tấm khăn dù quàng qua cổ, vẫy cậu Phòng liên lạc cùng đi ra hướng Ngã Ba Bản Phiệt.
Đúng như nhận định của tiểu đoàn trưởng, chưa đầy 10 phút sau, 16 thương binh cùng lúc được chuyển về. Ở tiểu đoàn bộ lẽ ra còn phải có 1 y tá, nhưng do đơn vị mới thành lập nên chỉ một mình tôi (quân y sỹ) phải đảm nhiệm tất cả. Tôi nhắc các đồng chí vận tải ở lại để tiếp tục đưa thương binh về tuyến sau - sau khi tôi làm nhiệm vụ kiểm tra vết thương, bổ sung cấp cứu, chống sốc tạm thời cho thương binh nặng và phân loại để ưu tiên vận chuyển.
Trong suốt các ngày từ 17 đến 20 tháng 2, địch dùng lực lượng lớn áp đảo. Theo thông tin từ cấp trên thì chỉ riêng hướng biên giới Hoàng Liên Sơn, địch đã huy động quy mô đến 2 quân đoàn đánh sang. Thê đội 1 của địch là quân đoàn Sơn Cước - đây là một binh đoàn chuyên đánh vận động rừng núi. Nhưng để phá được phòng tuyến bờ biên của ta, địch còn dùng chiến thuật “biển người”, thậm chí cả các loại động vật như trâu, bò, ngựa, chó… cùng với lực lượng dân binh ồ ạt tràn sang trước, càn qua các trận địa vật cản. Không biết chính thức phía Trung Quốc phải bỏ mạng bao nhiêu người vì chông, mìn cùng với những làn mưa đạn từ trận địa phòng ngự bờ biên của Việt Nam. Nhưng như vậy đủ biết rằng, để đạt được mục đích khoa trương sức mạnh, nhà cầm quyền Trung Quốc đã bất chấp tính mạng của không biết bao nhiêu người dân và binh lính!.
Xe tăng Trung Quốc (2/1979)-Ảnh Minh họa
Về phía ta, do không chủ động gây chiến nên tất thảy chỉ có khoảng 1 sư đoàn, bao gồm cả các đơn vị quân địa phương, bộ đội biên phòng thuộc tỉnh, dân quân tự vệ và một số đơn vị làm kinh tế của Quân khu đang đứng chân trên địa bàn. Vì vậy, so sánh lực lượng thì cả quân số lẫn vũ khí, khí tài quân dụng đều rất chênh lệch. Nhưng, với tinh thần quyết tâm bảo vệ chủ quyền quốc gia, các trận đánh ở đồi "C117" thị xã Lào Cai và suốt dọc bờ Nậm Thi kéo về Ngã Ba Bản Phiệt đã diễn ra vô cùng ác liệt. Quân và dân ta đã kìm chân bọn Sơn Cước suốt từ đêm 16 cho đến chiều 22 tháng 2, không cho chúng vượt được qua ngã ba Bản Phiệt và ga Phố Mới.

                                                                                        Cả Mõ

Xe con 5 chỗ ngồi
Giới thiệu dòng xe mới, với giá cực rẻ, chỉ trên dưới 500 triệu là có một xe đập hộp, chất lượng tuyệt vời. Chi tiết tại trang Web:http://www.nissan.com.vn/vt/web/homepage/index.htm
Có thể tìm hiểu và đặt mua qua tổng đại lý: Số nhà 169-đường Cách Mạng Tháng Tám, thị trấn Phố Lu, Bảo Thắng-Lào Cai. mức giá tương đối thấp ( 468- 565 triệu đòng VN)
Xe bán tải


04 tháng 6 2014

BẮC KINH HẰN HỌC VÌ KHÔNG ĐẠT ĐƯỢC MƯU ĐỒ THÔN TÍNH ĐÔNG DƯƠNG

(Trong loạt bài hồi ức về cuộc chiến biên giới phía Bắc- 1979)

Cho đến giữa năm 1978, mặc dù bầu không khí trên tuyến biên giới đã trở nên ngột ngạt, phía Trung Quốc kéo một lực lượng lớn quân đội ra áp sát biên giới, liên tục cho thám báo sang Việt Nam để dò la, quấy nhiễu và tung tin thất thiệt. Nhưng về phía ta vẫn chủ trương giữ hòa khí anh em.
Bức tường bao quanh khu vực phòng Văn hóa - Thông tin thị xã Lào Cai, giáp với trạm Kiểm dịch cửa khẩu, đối diện cầu Hồ Kiều ngày đó vẫn tồn tại một khẩu hiệu lớn: “MỐI TÌNH HỮU NGHỊ VIỆT-HOA VỪA LÀ ĐỒNG CHÍ VỪA LÀ ANH EM”. Do được kẻ từ lâu nên khẩu hiệu đã mờ, lãnh đạo tỉnh Hoàng Liên Sơn lại chỉ đạo cho tô, kẻ lại. Nhưng ngược lại, phía bên kia biên giới Trung Quốc đã bắt đầu chĩa súng bắn tỉa sang ta. Đâu đó lác đác đã có đồng bào, chiến sỹ của ta bị bắt cóc, bị bắn tỉa gây thương vong, tạo nên không khí ngày một thêm căng thẳng. Vậy là, “Cây muốn lặng, nhưng gió chẳng muốn đừng”, buộc chúng ta phải cảnh giác với ông bạn láng giềng mà một thời được coi là “Môi hở, răng lạnh”.
Cùng với những hành động khiêu khích, gây tổn thương cho đồng bào, chiến sỹ ta nơi biên giới, thì trên sóng phát thanh đài Bắc Kinh cũng đồng thời tuôn ra luận điệu sặc mùi thù địch như Việt Nam xua đuổi người Hoa, Việt Nam bài xích Trung Quốc... 
Trong khi chúng ta đang phải căng sức ra để chống lại sự tráo trở của Pôn Pốt ở biên giới Tây-Nam, rồi buộc phải mở chiến dịch giúp bạn Căm Pu Chia quét sạch lũ diệt chủng Pôn Pôt núp dưới danh Cộng Sản, thì Trung Quốc lại đã công khai chống lưng cho bè lũ Phát xít mới này. Họ lồng lộn chửi bới Việt Nam là “Tiểu bá” và tuyên bố sẽ “dạy cho Việt Nam bài học”…   
Vương Quán Trung thứ trưởng Quốc phòng T.Q lớn tiếng và ngạo mạn chỉ trích một số nước tại hội nghị Shangri-la
Thì ra không chỉ với Việt Nam là người hàng xóm cận lân, cận sân Trung Quốc mới tìm cách kéo vào vòng cương tỏa. Với Căm Pu Chia, Trung Quốc cũng tìm cách dựng lên một lũ quỷ khát máu, khoác màu áo Cộng Sản. Rồi họ huấn luyện cho lũ quỷ mặt người này: Bên trong thì mở chiến dịch tự diệt chủng dân tộc Khơ Me bằng những cuộc thanh trừng, kiểu “nồi da nấu thịt”. Bên ngoài thì họ dùng lũ chư hầu ấy để gậm nhấm, phá hoại, khủng bố đồng bào ta ở các tỉnh biên giới giáp với Căn Pu Chia. Mục tiêu là làm yếu Việt Nam trước khi Họ chính thức ra tay thôn tính.
Nhưng những người cầm đầu chính phủ Bắc Kinh không ngờ rằng, toàn bộ ý đồ thâm hiểm ấy của họ lại sớm bị Việt Nam phát giác. Họ càng không thể ngờ là, Việt Nam đã không hề suy yếu mà còn đem quân giúp nhân dân Căm Phu Chia đánh tan bè lũ Cộng Sản giả hiệu do Họ dàn dựng. Việc làm ấy có khác nào giết chết mất đội âm binh, mà bàn tay phù thủy Bắc kinh đã mất bao nhiêu công lao nhào nặn.
Với Lào, tuy Trung Quốc chưa lộ rõ thái độ thôn tính, nhưng thực chất Cách mạng Lào cũng đã từng phải trả giá; thậm chí đã phải làm theo sắp xếp của Trung Quốc để mất 2 tỉnh đã giải phóng ngay sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ vừa ký kết, dẫn đến Hoàng thân Souphanouvong (một lãnh tụ cách mạng Lào) bị bắt giữ, hai tiểu đoàn quân Giải phóng Lào bị vây hãm …Rồi Họ can thiệp để hạn chế chiến tranh du kích của Lào và của Việt Nam ngày từ thời kỳ đó. Thực ra Họ đã chứng tỏ với một thái độ can thiệp vô nguyên tắc vào nội bộ của các nước Đông Dương, nhằm đạt được mục đích không trong sáng của Họ.[1] Điểm lại lịch sử của 3 nước Đông Dương chúng ta càng thấy rõ, dù đối với Việt Nam, Lào hay Căm Pu Chia thì trước con mắt của Bắc Kinh cũng đều là những con mồi thèm khát. Vì vậy bàn tay của Bắc Kinh đã thò vào đó nhiều lần, tìm nhiều cách để phát huy vòng cương tỏa.
Nhưng đến nay ý đồ ấy của Bắc Kinh vẫn chưa thành. Người phát giác âm mưu ấy của Họ và đã sớm cảnh giác chống lại Họ, không ai khác lại chính là Việt Nam. Điều này đã khiến cho Bắc Kinh thật khó kìm cơn nịnh nộ. Tuy nhiên, bề ngoài một mặt Bắc Kinh vẫn tỏ ý hữu hảo với chúng ta, vì Họ thừa biết để nuốt được Việt Nam là một điều chẳng dễ; mặt khác, trong lòng Họ luôn coi Việt Nam tựa như một cái gai khó nhổ. Từ đó hành động thù địch công khai của những người lãnh đạo Trung Quốc đối với Việt Nam, mà đỉnh cao là cuộc chiến tranh xâm lược của họ ngày 17 tháng 2 năm 1979. Sự kiện này đã làm cho dư luận thế giới ngạc nhiên trước thay đổi đột ngột về chính sách ứng xử của Trung Quốc với Việt Nam. Nhưng với chúng ta, hàng loạt sự kiện và thái độ hành xử lắt léo trước đó của nhà cầm quyền Bắc Kinh đã cho thấy, sự thay đổi đó không phải là bất ngờ, nó chính là sự phát triển rất lô-gích từ chiến lược bành trướng đại dân tộc, bá quyền nước lớn của những người lãnh đạo Trung Quốc trong nhiều chục qua.
Trên thế giới chưa có người lãnh đạo một nước nào về mặt chiến lược lại lật ngược chính sách liên minh, đổi bạn thành thù, đổi thù thành bạn nhanh chóng và toàn diện như những người lãnh đạo Trung Quốc. Bởi vậy, nói như nhà thơ Trần Đăng Khoa thì, điều bất hạnh nhất đối với chúng ta là phải ở kề bên với một anh hàng xóm xấu chơi và ti tiện!.

                                                                                   Cả Mõ    





[1] Dựa theo  “Phát biu ca đ/c Lê Dun năm 1979: V BN BÀNH TRƯỚNG BC KINH”