![](https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg50H43pi6UiPPtFjalnxR1iISMWGrcyGIj1CP56BtEr81KTcUaFCTLFbhDTu-MFpTjz0yNF1iMNwdwGybnfavS0Rg7GrqDlRyECXr5-c-0utKOs-5C11vLAXjU1tJXcUJPHjHVrFKWVrE/s200/TS+B%25C3%25B9i+Hi%25E1%25BB%2581n.jpg) |
PGS-TS Bùi Hiền
Người đang hô hào cải tiến chữ Quốc ngữ |
Chữ nhiều nên lú rồi chăng
Làm cho thiên hạ ngỡ rằng ông điên
Hỡi ôi! tiến sĩ Bùi Hiền
Rỗi hơi nên mới tự nhiên động rồ
Nghĩ ra sáng kiến thật "phô":
Rằng là chữ cái bây giờ phải thay
"Văn minh" thừa dở thiếu hay
Tiến đâu chẳng thấy - lạy thày cải lui!
Cả Mõ
GS-TS
ĐỀ NGHỊ THAY ĐỔI TOÀN BỘ BẢNG CHỮ CÁI TIẾNG VIỆT
Chúng ta
nghĩ sao nếu chữ ‘luật giáo dục’ phải viết là ‘luật záo zụk’, ‘nhà nước’ là
‘n’à nướk’… Nhưng đó là cách viết cải tiến mà PGS-TS Bùi Hiền đề xuất trong một
cuốn sách mới xuất bản gần đây. Điều này gây ra nhiều tranh luận không chỉ
trong giới chuyên môn mà cả những người đang sử dụng tiếng Việt.
1. Ý kiến của TS Hiền:
* Chữ viết của
tiếng Việt hiện tại chưa hợp lý?
Đó là cuốn sách Ngôn ngữ ở Việt Nam
– Hội nhập và phát triển (tập 1) dày 2.200 trang, do nhà xuất bản Dân trí phát
hành, nhân Hội thảo ngữ học toàn quốc được tổ chức tại Trường ĐH Quy Nhơn hồi
tháng 9. Trong rất nhiều bài viết của các nhà ngôn ngữ học, có bài “Chữ quốc
ngữ và hội nhập quốc tế” của tác giả Bùi Hiền với đề xuất cải tiến chữ viết
tiếng Việt gây nhiều tranh cãi.
PGS-TS Bùi Hiền (Nguyên Hiệu phó
trường ĐHSP Ngoại ngữ Hà Nội, nguyên phó Viện trưởng Viện Nội dung & Phương
pháp dạy – học phổ thông) cho biết: “Từ năm 1924, khi toàn quyền Đông Dương ký
nghị định cho phép dạy chữ quốc ngữ bắt buộc ở cấp tiểu học, trải qua gần một
thế kỷ, đến nay chữ quốc ngữ đã bộc lộ nhiều bất hợp lý, nên cần phải cải tiến
để giản tiện, dễ nhớ, dễ sử dụng, tiết kiệm thời gian, vật tư…”.
Những bất hợp lý mà PGS Bùi Hiền đưa
ra, đó là hiện tại, chúng ta sử dụng 2, 3 chữ cái để biểu đạt một âm vị phụ âm
đứng đầu. Ví dụ C – Q – K (cuốc, quốc, ca, kali), Tr – Ch (tra, cha), S – X
(sa, xa)… Bên cạnh đó, lại dùng 2 chữ cái ghép lại để biểu đạt âm vị một số phụ
âm đứng cuối vần như Ch, Ng, Nh (mách, ông, tanh…). “Đó là những hiện tượng
không thống nhất, không theo một nguyên tắc chung nào dẫn đến khó khăn cho
người đọc, người viết, thậm chí gây hiểu nhầm hoặc không hiểu được chính xác
nội dung thông tin. Người học như trẻ em hay người nước ngoài, cũng rất hay mắc
lỗi do sự phức tạp này mang lại”, tác giả Bùi Hiền chia sẻ.
Từ đó, PGS Hiền kiến nghị một phương
án làm cơ sở để tiến tới một phương án tối ưu trình nhà nước. Chữ quốc ngữ cải
tiến của tác giả Bùi Hiền dựa trên tiếng nói văn hóa của thủ đô Hà Nội cả về âm
vị cơ bản lẫn 6 thanh điệu chuẩn, nguyên tắc mỗi chữ chỉ biểu đạt một âm vị, và
mỗi âm vị chỉ có một chữ cái tương ứng biểu đạt. Sẽ bỏ chữ Đ ra khỏi bảng chữ
cái tiếng Việt hiện hành và bổ sung thêm một số chữ cái tiếng Latin như F, J,
W, Z. Bên cạnh đó, thay đổi giá trị âm vị của 11 chữ cái hiện có trong bảng
trên, cụ thể: C = Ch, Tr; D = Đ; G = G, Gh; F = Ph; K = C, Q, K; Q = Ng, Ngh; R
= R; S = S; X = Kh; W =Th; Z = d, gi, r. Vì âm “nhờ” (nh) chưa có kí tự mới
thay thế, nên trong văn bản trên tạm thời dùng kí tự ghép n’ để biểu đạt.
PGS-TS Bùi Hiền cho biết: “Đề xuất
của tôi có nhiều nhà ngôn ngữ họ thấy hợp lý vì chữ viết mới có một nguyên tắc
thống nhất. Nhưng cũng có nhiều ý kiến phản bác vì cho rằng nếu cải tiến vậy sẽ
phức tạp, có nhiều hệ lụy. Ví dụ kho tư liệu đồ sộ cũ chuyển sang chữ viết mới
thì sẽ xử lý như thế nào. Và để thay đổi sẽ phải mất rất nhiều thời gian: thay
đổi nhận thức, thay đổi cách học, cách dạy, sách giáo khoa cũng phải thay đổi,
các văn bản, sách, báo, rồi lập trình chữ viết trên máy tính… Phải thay đổi
từng bước một. Nhưng chỉ cần mất 1-2 năm là quen dần”.
Bù lại, theo PGS Hiền, cải tiến theo
cách này sẽ thống nhất được chữ viết cho cả nước, loại bỏ được hầu hết các
thiếu sót, bất cập không nhất quán trước đây gây khó khăn cho người dùng (dẫn
mắc lỗi chính tả), giản tiện được bộ chữ cái khi từ 38 chữ cái chỉ còn 31, dễ
nắm được quy tắc, dễ nhớ. Ngoài ra, còn tiết kiệm được thời gian, công sức, vật
tư trong quá trình tạo lập các văn bản trên giấy, trên máy tính.
2. Ý kiến của các chuyên gia và nhà chuyên môn:
* Sẽ mất đi sự tinh tế trong cách
viết, đọc và phát âm của tiếng Việt
Chia sẻ về vấn đề cải tiến chữ quốc
ngữ, PGS-TS Nguyễn Hữu Hoành, Phó Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học Việt Nam cho
biết, vấn đề này đã được các nhà ngôn ngữ học trao đổi, đề cập rất nhiều trong
những năm qua chứ không riêng gì đề xuất của PGS-TS Bùi Hiền.
“Tuy nhiên, không thể thay đổi được
và cũng không nên thay đổi, vì chữ viết liên quan đến văn hóa, lịch sử và rất
nhiều vấn đề khác. Ngay cả tiếng Anh, một ngôn ngữ phổ biến có nhiều chữ đọc và
viết bất hợp lý mà cũng không ai nghĩ đến việc cải tiến. Đến nay, trải qua
nhiều thế kỷ, tiếng Việt đã định hình và chữ quốc ngữ đã tồn tại cả thế kỷ với
kho tư liệu đồ sộ từ lúc hình thành đến bây giờ”, PGS-TS Nguyễn Hữu Hoành nhìn
nhận.
GS-TS Bùi Khánh Thế (chuyên ngành
ngôn ngữ học, Phó Chủ tịch Hội đồng khoa học và đào tạo Trường ĐH Ngoại ngữ-Tin
học TP.HCM ), cũng cho rằng, từ năm 1997, Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn
TP.HCM đã tổ chức hội thảo Chữ quốc ngữ và sự phát triển chức năng xã hội của
tiếng Việt, với 32 bài viết từ các chuyên gia ngôn ngữ. Từ đó đến nay cũng có
rất nhiều hội thảo, chuyên đề đề cập tới việc nên giữ hay cải tiến.
Nói về đề xuất của PGS-TS Bùi Hiền,
giáo sư Bùi Khánh Thế cho biết: “Có một số bất hợp lý, chẳng hạn ký tự q lại
thay thế cho chữ ng, z thay gi, c thay tr, ch… Chưa kể làm vậy sẽ mất đi sự
tinh tế trong cách viết, đọc và phát âm của tiếng Việt. Từ lúc hình thành cho
đến nay, tiếng Việt có nhiều âm thay đổi nhưng chữ viết vẫn giữ nguyên. Đó
chính là sự bền vững cần có, chỉ những gì bất hợp lý mới mất đi”.
Theo GS-TS Bùi Khánh Thế, càng đổi
mới thì càng bị rối. Đó là chưa kể, sẽ phải tốn rất nhiều thời gian, công sức
và kinh phí để thay đổi. Vì thế, đối với chữ quốc ngữ, nên tìm cách chú ý khắc
phục những cái khó, hơn là cải tiến.
Dưới
đây là một ví dụ về cách viết cải tiến theo đề xuất của ông Bùi Hiền.
LUẬT
ZÁO ZỤK
Diều 7. Qôn qữ zùq coq n’à cườq
và kơ sở záo zụk xák; zạy và họk tiếq nói, cữ viết kủa zân tộk wiểu số; zạy
qoại qữ.
1. Tiếq Việt là qôn qữ cín’ wứk
zùq coq n’à cườq và kơ sở záo zụk xák. Kăn
kứ vào mụk tiêu záo zụk và yêu kầu kụ wể về nội zuq záo zụk, Wủ tướq cín’ fủ
kuy dịn’ việk zạy và họk bằq tiếq nướk qoài coq n’à cườq và kơ sở záo zụk xák.
2. N’à nướk tạo diều kiện dể
qười zân tộk wiểu số dượk họk tiếq nói, cữ viết kủa zân tộk mìn’ n’ằm zữ zìn
và fát huy bản sắk văn hoá zân tộk, zúp co họk sin’ qười zân tộk wiểu số zễ
zàq tiếp wu kiến wứk xi họk tập coq n’à cườq và kơ sở záo zụk xák. Việk zạy
và họk tiếq nói, cữ viết kủa zân tộk wiểu số dượk wựk hiện weo kuy dịn’ kủa
Cín’ fủ.
3. Qoại qữ kuy dịn’ coq cươq
cìn’ záo zụk là qôn qữ dượk sử zụq fổ biến coq zao zịk kuốk tế . Việk tổ cứk
zạy qoại qữ coq n’à cườq và kơ sở záo zụk xák kần dảm bảo dể qười họk liên
tụk và kó hiệu kuả.
|
Dịch ra chữ hiện tại:
LUẬT GIÁO DỤC
Điều 7. Ngôn ngữ dùng trong nhà
trường và cơ sở giáo dục khác; dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu
số; dạy ngoại ngữ.
1. Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức
dùng trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác. Căn cứ vào mục tiêu giáo dục và
yêu cầu cụ thể về nội dung giáo dục, Thủ tướg chíh phủ quy định việc dạy và học
bằng tiếng nước ngoài trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác.
2. Nhà nước tạo điều kiện để người
dân tộc thiểu số được học tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình nhằm giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, giúp cho học sinh người dân tộc thiểu số dễ
dàng tiếp thu kiến thức khi học tập trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác.
Việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số được thực hiện theo
quy định của Chíh phủ.
3. Ngoại ngữ quy định trong chương
trình giáo dục là ngôn ngữ được sử dụng phổ biến trong giao dịch quốc tế. Việc
tổ chức dạy ngoại ngữ trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác cần đảm bảo để
người học được học liên tục và có hiệu quả.
* Chữ viết hiện tại phong phú và không
cần thiết thay đổi
Ông Trương Minh Đức, giáo viên ngữ
văn Trường THPT Lê Quý Đôn, TP.HCM cho rằng, tiếng Việt được hình thành từ lâu,
đó là cả một quá trình tất nhiên bản thân nó cũng đã có những quy tắc. Dùng
đúng hay chưa phù hợp thì bản thân nó cũng đã mang tính quy ước và có tính ổn
định, thống nhất. Việc Chữ quốc ngữ cải tiến dựa trên tiếng nói văn hóa của thủ
đô Hà Nội liệu có đảm bảo độ chính xác cao khi bản thân phương ngữ và cả ngữ âm
Hà Nội không ai dám chắc là chính xác. Vả lại sự phát triển ngôn ngữ trong
tiếng Việt nó còn do yếu tố từ yêu cầu của ngôn ngữ địa phương, vùng miền. Mặc
dù điều này khó mang đến sự thống nhất nhưng nó lại làm phong phú vốn từ và thể
hiện được bản sắc riêng từng địa phương.
Về phương án thay đổi âm vị của 11
chữ cái như PGS-TS Bùi Hiền đưa ra, theo thầy Đức là không cần thiết và không
hợp lý, chỉ gây nên sự xáo trộn không cần thiết, làm ảnh hưởng đến nhiều hệ
thống bảng biểu, luật định, văn bản… Và ngay cả tên gọi cá nhân trong các hồ sơ
pháp lý.
“Việc dạy và học văn sẽ gặp rất
nhiều sự trở ngại. Đó là phải đào tạo lại giáo viên (không kể giáo viên dạy các
môn khác môn ngữ văn), điều chỉnh lại tất cả các văn bản văn học, kể cả văn bản
văn học chữ quốc ngữ (phải xin phép cả những tác giả đã khuất) hoặc nếu không
phải có hàng loạt các chú thích cuối trang để những học sinh đối chiếu với văn
bản gốc. Cần nhiều thời gian để giáo viên và cả xã hội làm quen những điều vốn
dĩ không cần thiết song hành với bao phức tạp của xã hội”, ông Đức nhìn nhận.
Theo: Việtkhámphá