Cả Mõ

camoz77.blogspot.com/

29 tháng 11 2017

BÀN THÊM VỀ NHỮNG PHÁT KIẾN VÔ BỔ

             Nhân sự kiện đề nghị thay đổi bảng chữ cái tiếng Việt của PGS-TS Bùi Hiền. Tôi nhớ lại, cách đây hơn 20 năm (Vào khoảng năm 1994) cũng có một cuộc bàn luận khá sôi nổi trên báo Khoa học& Đời sống về vấn đề này.
           Ngày đó, một người có tên Trần Ngọc Sánh (Việt kiều ở Pháp) viết thư về nước đề nghị sửa lại chữ Quốc ngữ. Theo ông ta thì chữ Quốc ngữ có nhiều điểm bất hợp lý như, dùng nhiều phụ âm ghép; phụ âm trùng như: tr, ch, ph; k, c... Nguyên âm trùng như y, i và nhiều dấu (thanh) rắc rối. Nội dung đề xuất của ông này là thay đổi bảng chữ cái theo cách thay thế một số phụ âm ghép bằng phụ âm đơn, bỏ chữ đ thay bằng chữ d, còn chữ d lại thay bằng chữ z...; các dấu thanh thì thay bằng chữ, gần giống như đánh máy chữ trên bàn phím máy tính bây giờ. Kết cục là văn bản viết theo đề xuất của tác giả này tòi ra vô số cái vô lý, đáng kể nhất là con chữ càng rối hơn, viết thành văn bản thì khó mà dịch nổi. Việc đề xuất này sau một hồi thảo luận kéo dài đến 6 tháng trên Báo thì kết thúc. Trong đó có tới trên 95% bài thảo luận là phản đối việc cải cách chữ viết. Các ý kiến tập trung cho rằng, chúng ta cần tự hào vì có một loại chữ viết tiến bộ, hình thức đẹp, kí âm cơ bản được tiếng nói của dân tộc. Còn một vài nhược điểm nho nhỏ như cùng một phụ âm mà dùng đến 2 loại chữ cái như phụ âm K, phụ âm C thì các nước dùng chữ cái La tinh trước chúng ta như Pháp, Anh cũng không tránh khỏi. Thậm chí chữ Pháp còn có trường hợp một phụ âm, nhưng trong các điều kiện khác nhau có thể đọc biến âm, ví dụ: Chữ S đứng giữa 2 nguyên âm thì đọc như âm (Z); chữ C khi đứng sau nó là nguyên (i) thì đọc như âm (S) chẳng hạn. Chữ Quốc ngữ của ta cũng vậy, chữ K đọc như âm (C) chỉ trong trường hợp đứng sau nó là các nguyên âm (i), (e). Ngoài ra nó có vai trò kết hợp với phụ âm (h) để biến đổi thành phụ âm khác. Đó là nguyên tắc chính tả của mỗi nước. Khi nguyên tắc đó đã ổn định thì tốt nhất là không nên thay đổi.
            Cuối cùng Tòa soạn đã đưa ra kết luận, cần giữ nguyên bảng chữ cái và cách viết như hiện tại.
            Đến nay, sau hơn 20 năm chúng ta lại được chứng kiến dư luận xã hội rộ lên vì một đề xuất về cải cách chữ viết. Đề xuất lần này là của một nhà khoa học về ngôn ngữ hẳn hoi, nhưng xem ra cũng chẳng hợp lý - nếu không nói là hết sức vô lý và lợi bất cập hại. Bởi vậy việc đề xuất cải cách chữ viết lần này cũng vừa mới manh nha đã bị  dư luận "ném đá" không thương tiếc.

            Thiển nghĩ, chữ viết trước hết là một tài sản văn hóa phi vật thể của một quốc gia dân tộc. Chữ Quốc ngữ của ta đang dùng là loại chữ ký tự, để kí âm âm tiết của tiếng Việt. Bảng chữ cái La tinh từ khi được các giáo sĩ phương Tây sử dụng làm phương tiện phiên âm cho mục đích truyền giáo tại các nước châu Á. Nhưng chỉ có Việt Nam là được tiếp nhận, chuyển hóa thành Quốc ngữ. Người được nhắc đến nhiều nhất trong quá trình sử dụng chữ cái La tinh để phiên âm tiếng Việt là giáo sĩ Alexandre de Rhodes. Thực chất là ông đã dùng nó để truyền Đạo vào Việt Nam. Sau này với quá trình đóng góp điều chỉnh của công chúng, dần đã hình thành bảng chữ cái Quốc ngữ để thay thế cho chữ Nôm, chữ Hán vì nó thuận tiện cho phiên âm quốc tê. Từ khi chính thức vào nước ta, các chữ cái La tinh cũng đã trải qua hàng thế kỷ điều chỉnh mới trở thành bảng chữ cái Quốc ngữ Việt Nam để hoàn thiện cách ghép vần và nguyên tắc viết chính tả ổn định như ngày nay. Với bảng chữ cái hiện tại, chúng ta có thể tự hào là đã được xếp ngang hàng với chữ của các nước tiến bộ trên thế giới. Bản thân nó cũng đã làm tròn bổn phận ký âm cho toàn bộ âm tiết của tiếng Việt và thể hiện được đầy đủ các cung bậc tình cảm. Như vậy, liệu có cần thiết phải cải cách?.

            Đánh giá vai trò của chữ Quốc ngữ tại "Hội thảo khoa học: Chữ Quốc ngữ-sự hình thành, phát triển và những đóng góp vào văn hóa Việt Nam" tại Tuy Hòa, Phú Yên (tháng 10-2015) đã thống nhất nhận định "...sự phát triển của chữ quốc ngữ một phần là do nó phù hợp với lịch sử, nhưng phần khác lớn hơn là do tính ưu việt so với các hình thức chữ có trước đó tại Việt Nam. Nếu trước đó với loại chữ Hán, chữ Nôm - một loại chữ rất khó học - dân Việt Nam có đến 98% người mù chữ, thì nay với chữ quốc ngữ tình thế đã hoàn toàn đảo ngược lại, tức số người biết chữ là 98% và số người mù chữ chỉ bằng số người biết chữ thời bấy giờ".

            Những năm gân đây, không riêng chữ Quốc ngữ, chúng ta đã quá mệt mỏi về những đề xuất cải cách mà cuối cùng không những không đem lại hiệu quả tiến bộ, thậm chí còn để lại những hệ lụy tai hại. Ví dụ, vào đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước, người ta định thay đổi Quốc ca. Cuộc vận động sáng tác Quốc ca được phát động khá rầm rộ, Nhà nước thành lập cả một hội đồng xét chọn. Nhưng cuối cùng, rất may là nhân dân không chấp nhận. Tưởng điều ấy đã làm nên bài học, vậy mà vài năm sau người ta lại nghĩ ra cải tiến chữ viết, bắt tất cả học sinh lớp một viết một loại chữ "cắt móc" (tương tự như chữ in). Loại chữ này vừa vụn, vừa khó coi, khi viết còn liên tục phải nhấc bút làm cho tộc độ ghi chậm lại. Tiếp nữa là cho học sinh lớp một học chữ e trước tiên, thay vì chữ a trong bảng chữ cái như truyền thống. Các cuộc cải cách này cũng tự nhiên chết yểu mà không cần khai tử.

            Gần đây ngành giáo dục vẫn được xếp vào đội ngũ tiên phong của các cải tiến và cải cách, gây nên không biết bao nhiêu tranh luận, thậm chí có lúc đại biểu Quốc hội cũng phải than trước nghị trường rằng, "Xin các ngài đừng lấy con em chúng tôi ra làm chuột bạch nữa!". Vậy mà phong trào cải tiến, cải cách vẫn tiếp tục nở rộ như hoa cúc dại giữa mùa thu!.

         Vẫn biết đổi mới là nhu cầu không thể thiếu, nhằm đáp ứng cho sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, cải cách, cải tiến thì cái sau phải tiến bộ hơn cái trước; cái mới phải văn minh hơn cái cũ. Muốn vậy, sáng kiến cải tiến phải thực sự khoa học; phải được thận trọng thẩm định trước khi áp dụng vào thực tiễn đời sống. Tuyệt đối không thể cứ nghĩ ra cái mới, rồi chủ quan cho là hay, cưỡng ép thực hiện đại trà, hỏng thì lại sửa. Cung cách làm ăn như vậy chẳng những không làm cho xã hội phát triển mà ngược lại còn phá hoại cả tiến trình phát triển của xã hội.

            Hiện nay đất nước còn biết bao công việc phải làm để tránh mắc vào cái "bẫy thu nhập trung bình". Tổ quốc và nhân dân đang kỳ vọng vào các nhà khoa học, nhưng nhân dân cũng không thiếu minh mẫn để vội vã hùa theo ý kiến của một số người mượn danh khoa học, bày ra những phát kiến vô bổ, không giúp ích cho sự phát triển của đất nước mà còn báo hại cho quốc gia - dân tộc.

                                                                                          Mạnh Nguyên

25 tháng 11 2017

TIẾN SĨ ĐỘNG RỒ

PGS-TS Bùi Hiền
Người đang hô hào cải tiến chữ Quốc ngữ
Chữ nhiều nên lú rồi chăng
Làm cho thiên hạ ngỡ rằng ông điên
Hỡi ôi! tiến sĩ Bùi Hiền
Rỗi hơi nên mới tự nhiên động rồ
Nghĩ ra sáng kiến thật "phô":
Rằng là chữ cái bây giờ phải thay
"Văn minh" thừa dở thiếu hay
Tiến đâu chẳng thấy - lạy thày cải lui!  
                                  Cả Mõ






GS-TS ĐỀ NGHỊ THAY ĐỔI TOÀN BỘ BẢNG CHỮ CÁI TIẾNG VIỆT
            Chúng ta nghĩ sao nếu chữ ‘luật giáo dục’ phải viết là ‘luật záo zụk’, ‘nhà nước’ là ‘n’à nướk’… Nhưng đó là cách viết cải tiến mà PGS-TS Bùi Hiền đề xuất trong một cuốn sách mới xuất bản gần đây. Điều này gây ra nhiều tranh luận không chỉ trong giới chuyên môn mà cả những người đang sử dụng tiếng Việt.
           1. Ý kiến của TS Hiền:
* Chữ viết của tiếng Việt hiện tại chưa hợp lý?
            Đó là cuốn sách Ngôn ngữ ở Việt Nam – Hội nhập và phát triển (tập 1) dày 2.200 trang, do nhà xuất bản Dân trí phát hành, nhân Hội thảo ngữ học toàn quốc được tổ chức tại Trường ĐH Quy Nhơn hồi tháng 9. Trong rất nhiều bài viết của các nhà ngôn ngữ học, có bài “Chữ quốc ngữ và hội nhập quốc tế” của tác giả Bùi Hiền với đề xuất cải tiến chữ viết tiếng Việt gây nhiều tranh cãi.
            PGS-TS Bùi Hiền (Nguyên Hiệu phó trường ĐHSP Ngoại ngữ Hà Nội, nguyên phó Viện trưởng Viện Nội dung & Phương pháp dạy – học phổ thông) cho biết: “Từ năm 1924, khi toàn quyền Đông Dương ký nghị định cho phép dạy chữ quốc ngữ bắt buộc ở cấp tiểu học, trải qua gần một thế kỷ, đến nay chữ quốc ngữ đã bộc lộ nhiều bất hợp lý, nên cần phải cải tiến để giản tiện, dễ nhớ, dễ sử dụng, tiết kiệm thời gian, vật tư…”.
            Những bất hợp lý mà PGS Bùi Hiền đưa ra, đó là hiện tại, chúng ta sử dụng 2, 3 chữ cái để biểu đạt một âm vị phụ âm đứng đầu. Ví dụ C – Q – K (cuốc, quốc, ca, kali), Tr – Ch (tra, cha), S – X (sa, xa)… Bên cạnh đó, lại dùng 2 chữ cái ghép lại để biểu đạt âm vị một số phụ âm đứng cuối vần như Ch, Ng, Nh (mách, ông, tanh…). “Đó là những hiện tượng không thống nhất, không theo một nguyên tắc chung nào dẫn đến khó khăn cho người đọc, người viết, thậm chí gây hiểu nhầm hoặc không hiểu được chính xác nội dung thông tin. Người học như trẻ em hay người nước ngoài, cũng rất hay mắc lỗi do sự phức tạp này mang lại”, tác giả Bùi Hiền chia sẻ.
            Từ đó, PGS Hiền kiến nghị một phương án làm cơ sở để tiến tới một phương án tối ưu trình nhà nước. Chữ quốc ngữ cải tiến của tác giả Bùi Hiền dựa trên tiếng nói văn hóa của thủ đô Hà Nội cả về âm vị cơ bản lẫn 6 thanh điệu chuẩn, nguyên tắc mỗi chữ chỉ biểu đạt một âm vị, và mỗi âm vị chỉ có một chữ cái tương ứng biểu đạt. Sẽ bỏ chữ Đ ra khỏi bảng chữ cái tiếng Việt hiện hành và bổ sung thêm một số chữ cái tiếng Latin như F, J, W, Z. Bên cạnh đó, thay đổi giá trị âm vị của 11 chữ cái hiện có trong bảng trên, cụ thể: C = Ch, Tr; D = Đ; G = G, Gh; F = Ph; K = C, Q, K; Q = Ng, Ngh; R = R; S = S; X = Kh; W =Th; Z = d, gi, r. Vì âm “nhờ” (nh) chưa có kí tự mới thay thế, nên trong văn bản trên tạm thời dùng kí tự ghép n’ để biểu đạt.
            PGS-TS Bùi Hiền cho biết: “Đề xuất của tôi có nhiều nhà ngôn ngữ họ thấy hợp lý vì chữ viết mới có một nguyên tắc thống nhất. Nhưng cũng có nhiều ý kiến phản bác vì cho rằng nếu cải tiến vậy sẽ phức tạp, có nhiều hệ lụy. Ví dụ kho tư liệu đồ sộ cũ chuyển sang chữ viết mới thì sẽ xử lý như thế nào. Và để thay đổi sẽ phải mất rất nhiều thời gian: thay đổi nhận thức, thay đổi cách học, cách dạy, sách giáo khoa cũng phải thay đổi, các văn bản, sách, báo, rồi lập trình chữ viết trên máy tính… Phải thay đổi từng bước một. Nhưng chỉ cần mất 1-2 năm là quen dần”.
            Bù lại, theo PGS Hiền, cải tiến theo cách này sẽ thống nhất được chữ viết cho cả nước, loại bỏ được hầu hết các thiếu sót, bất cập không nhất quán trước đây gây khó khăn cho người dùng (dẫn mắc lỗi chính tả), giản tiện được bộ chữ cái khi từ 38 chữ cái chỉ còn 31, dễ nắm được quy tắc, dễ nhớ. Ngoài ra, còn tiết kiệm được thời gian, công sức, vật tư trong quá trình tạo lập các văn bản trên giấy, trên máy tính.
                2. Ý kiến của các chuyên gia và nhà chuyên môn:
* Sẽ mất đi sự tinh tế trong cách viết, đọc và phát âm của tiếng Việt
            Chia sẻ về vấn đề cải tiến chữ quốc ngữ, PGS-TS Nguyễn Hữu Hoành, Phó Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học Việt Nam cho biết, vấn đề này đã được các nhà ngôn ngữ học trao đổi, đề cập rất nhiều trong những năm qua chứ không riêng gì đề xuất của PGS-TS Bùi Hiền.
            “Tuy nhiên, không thể thay đổi được và cũng không nên thay đổi, vì chữ viết liên quan đến văn hóa, lịch sử và rất nhiều vấn đề khác. Ngay cả tiếng Anh, một ngôn ngữ phổ biến có nhiều chữ đọc và viết bất hợp lý mà cũng không ai nghĩ đến việc cải tiến. Đến nay, trải qua nhiều thế kỷ, tiếng Việt đã định hình và chữ quốc ngữ đã tồn tại cả thế kỷ với kho tư liệu đồ sộ từ lúc hình thành đến bây giờ”, PGS-TS Nguyễn Hữu Hoành nhìn nhận.
            GS-TS Bùi Khánh Thế (chuyên ngành ngôn ngữ học, Phó Chủ tịch Hội đồng khoa học và đào tạo Trường ĐH Ngoại ngữ-Tin học TP.HCM ), cũng cho rằng, từ năm 1997, Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM đã tổ chức hội thảo Chữ quốc ngữ và sự phát triển chức năng xã hội của tiếng Việt, với 32 bài viết từ các chuyên gia ngôn ngữ. Từ đó đến nay cũng có rất nhiều hội thảo, chuyên đề đề cập tới việc nên giữ hay cải tiến.
            Nói về đề xuất của PGS-TS Bùi Hiền, giáo sư Bùi Khánh Thế cho biết: “Có một số bất hợp lý, chẳng hạn ký tự q lại thay thế cho chữ ng, z thay gi, c thay tr, ch… Chưa kể làm vậy sẽ mất đi sự tinh tế trong cách viết, đọc và phát âm của tiếng Việt. Từ lúc hình thành cho đến nay, tiếng Việt có nhiều âm thay đổi nhưng chữ viết vẫn giữ nguyên. Đó chính là sự bền vững cần có, chỉ những gì bất hợp lý mới mất đi”.
            Theo GS-TS Bùi Khánh Thế, càng đổi mới thì càng bị rối. Đó là chưa kể, sẽ phải tốn rất nhiều thời gian, công sức và kinh phí để thay đổi. Vì thế, đối với chữ quốc ngữ, nên tìm cách chú ý khắc phục những cái khó, hơn là cải tiến.
Dưới đây là một ví dụ về cách viết cải tiến theo đề xuất của ông Bùi Hiền. 
LUẬT ZÁO ZỤK
Diều 7. Qôn qữ zùq coq n’à cườq và kơ sở záo zụk xák; zạy và họk tiếq nói, cữ viết kủa zân tộk wiểu số; zạy qoại qữ.
1. Tiếq Việt là qôn qữ cín’ wứk zùq coq n’à cườq và kơ sở záo zụk xák. Kăn kứ vào mụk tiêu záo zụk và yêu kầu kụ wể về nội zuq záo zụk, Wủ tướq cín’ fủ kuy dịn’ việk zạy và họk bằq tiếq nướk qoài coq n’à cườq và kơ sở záo zụk xák.
2. N’à nướk tạo diều kiện dể qười zân tộk wiểu số dượk họk tiếq nói, cữ viết kủa zân tộk mìn’ n’ằm zữ zìn và fát huy bản sắk văn hoá zân tộk, zúp co họk sin’ qười zân tộk wiểu số zễ zàq tiếp wu kiến wứk xi họk tập coq n’à cườq và kơ sở záo zụk xák. Việk zạy và họk tiếq nói, cữ viết kủa zân tộk wiểu số dượk wựk hiện weo kuy dịn’ kủa Cín’ fủ.
3. Qoại qữ kuy dịn’ coq cươq cìn’ záo zụk là qôn qữ dượk sử zụq fổ biến coq zao zịk kuốk tế . Việk tổ cứk zạy qoại qữ coq n’à cườq và kơ sở záo zụk xák kần dảm bảo dể qười họk liên tụk và kó hiệu kuả.
            Dịch ra chữ hiện tại:
            LUẬT GIÁO DỤC
            Điều 7. Ngôn ngữ dùng trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác; dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số; dạy ngoại ngữ.
            1. Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức dùng trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác. Căn cứ vào mục tiêu giáo dục và yêu cầu cụ thể về nội dung giáo dục, Thủ tướg chíh phủ quy định việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác.
            2. Nhà nước tạo điều kiện để người dân tộc thiểu số được học tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, giúp cho học sinh người dân tộc thiểu số dễ dàng tiếp thu kiến thức khi học tập trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác. Việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số được thực hiện theo quy định của Chíh phủ.
            3. Ngoại ngữ quy định trong chương trình giáo dục là ngôn ngữ được sử dụng phổ biến trong giao dịch quốc tế. Việc tổ chức dạy ngoại ngữ trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác cần đảm bảo để người học được học liên tục và có hiệu quả.
* Chữ viết hiện tại phong phú và không cần thiết thay đổi
            Ông Trương Minh Đức, giáo viên ngữ văn Trường THPT Lê Quý Đôn, TP.HCM cho rằng, tiếng Việt được hình thành từ lâu, đó là cả một quá trình tất nhiên bản thân nó cũng đã có những quy tắc. Dùng đúng hay chưa phù hợp thì bản thân nó cũng đã mang tính quy ước và có tính ổn định, thống nhất. Việc Chữ quốc ngữ cải tiến dựa trên tiếng nói văn hóa của thủ đô Hà Nội liệu có đảm bảo độ chính xác cao khi bản thân phương ngữ và cả ngữ âm Hà Nội không ai dám chắc là chính xác. Vả lại sự phát triển ngôn ngữ trong tiếng Việt nó còn do yếu tố từ yêu cầu của ngôn ngữ địa phương, vùng miền. Mặc dù điều này khó mang đến sự thống nhất nhưng nó lại làm phong phú vốn từ và thể hiện được bản sắc riêng từng địa phương.
            Về phương án thay đổi âm vị của 11 chữ cái như PGS-TS Bùi Hiền đưa ra, theo thầy Đức là không cần thiết và không hợp lý, chỉ gây nên sự xáo trộn không cần thiết, làm ảnh hưởng đến nhiều hệ thống bảng biểu, luật định, văn bản… Và ngay cả tên gọi cá nhân trong các hồ sơ pháp lý.
            “Việc dạy và học văn sẽ gặp rất nhiều sự trở ngại. Đó là phải đào tạo lại giáo viên (không kể giáo viên dạy các môn khác môn ngữ văn), điều chỉnh lại tất cả các văn bản văn học, kể cả văn bản văn học chữ quốc ngữ (phải xin phép cả những tác giả đã khuất) hoặc nếu không phải có hàng loạt các chú thích cuối trang để những học sinh đối chiếu với văn bản gốc. Cần nhiều thời gian để giáo viên và cả xã hội làm quen những điều vốn dĩ không cần thiết song hành với bao phức tạp của xã hội”, ông Đức nhìn nhận.

                                                                                             Theo: Việtkhámphá

NHÀ MÕ THỀ ĐỘC


            Thời Phong Kiến, Mõ được coi là một chức việc thấp nhất trong làng. Bởi vậy, mỗi khi có đình đám, việc làng thì Mõ phải đi rao, mời dân làng. Đến ngày làng vào việc thì phải ra đình sớn để trải chiếu, sắp cỗ… phục vụ các "cụ". Vậy mà bổng lộc và chỗ ngồi thì được phân thứ hạng thấp nhất. Điều ấy làm cho Mõ cũng cảm thấy bực mình. Đó chính là lý do để họ nhà Mõ nghĩ ra nhiều mánh khoé "mơi lộc", thậm chí là chọc tức cả "các cụ" chức sắc trong làng. 
            Chuyện kể rằng, một hôm làng có việc, trong lúc thái thịt sắp cỗ, giữa buổi đang đói bụng, mùi thơm của thịt chín lại quyến rũ khó mà cưỡng lại. Kiếm cớ để chén trước, cứ miếng nào ngon mõ ta lại cố tình hẩy rơi xuống đất, rồi nhặt lên thổi đánh phù và cho vào miệng. Để ý thấy vậy, ông Lý bực lắm, ông liền quát:
            - Nhà Mõ kia, sao thái thịt mà mày cứ ăn thế thì còn gì là cỗ của các cụ!.
           Mõ vội khúm núm thưa:
            - Dạ, đâu có, con chỉ ăn miếng rơi xuống đất thôi ạ!.
            - Tao thấy mày cứ ăn nhem nhẻm chứ đất với cát cái gì! - ông Lý lại quát.
            Mõ vội bỏ dao xuống, trợn mắt lên thề rằng:
            - Thật ạ! Con xin thề với cụ Lý: Tổ sư đứa nào ăn miếng trên thớt!

            Biết bị chửi vỗ vào mặt, nhưng ông Lý cũng khó mà bắt bẻ. 
                                                                                                                      C.M

16 tháng 11 2017

CHUYỆN THẰNG ĐÂN


                Bây giờ tên nó là Đân - Nguyễn Trọng Đân, ấy là vì người ta đã cất đi cho nó cái dấu huyền (-) vào thời bắt đầu vào cấp 1, vì sợ nó lớn rồi ngượng với bạn bè. Cái tên này bắt nguồn từ bản tính cù lần, đần thối của nó từ khi còn nhỏ. Ngày bắt đầu học chữ, cậu nó dạy viết chữ a, nó hí hoáy cả buổi mới khoanh ngược được một chữ o to tổ bố, nhưng to quá khổ choán hết cả trang giấy. Nó đành gọi cậu và bảo:
            - Cậu ơi, sách bé quá, hết chỗ để vẽ cái móc cho chữ a rồi!.
            Đến lúc học ghép vần, có chữ ớt mà nó cứ gãi đầu, không sao đánh vần nổi. Cậu nó sốt ruột gợi ý:
            - Ơ-tờ gì?
            Nó vội “đớp” lấy ngay:
            - Ơ…tờ…GÌ! – rõ to.
            Cậu nó bực lắm, nhưng cố ôn tồn bảo:
            - Cậu hỏi, chữ ơ với chữ tờ ghép lại thì thành thành chữ gì, sao mày lại nhắc lại. Vậy chữ ơ ghép với chữ tờ thành quả gì đo đỏ hả?
            - Lại sáng mắt lên, nó xướng rõ to: Ơ…tờ  GẤC!.
            Cậu nó quát:
            - Không phải, cái gì cay cay hả?
            Không cần suy nghĩ, nó lại xướng:
            - Ơ…tờ GỪNG!
            Đến đây thì không kiên nhẫn được nữa, cậu nó đành cho nó một cái tét vào đít cho bõ tức.
            Nhưng học mãi rồi cũng thành "nhân". Nghe đâu sau tốt nghiệp phổ thông, nó thi vào ngành quản trị kinh doanh. Sau ngày tốt nghiệp, cũng nhờ quan hệ nó được nhận vào một đơn vị cơ quan nhà nước. Chẳng biết sao, mới vài tháng làm việc nó đã dính vào một vụ bê bối, nghe đâu là làm giả chứng từ gì đó, tham ô đến hàng chục triệu đồng. Tưởng thế thì toi, nhưng không biết sao nó lại thoát được vụ ấy bằng cho chuyển đơn vị công tác.
            Vậy mà mới hơn mười năm không gặp, hôm rồi có dịp lên huyện, mình lại thấy nó xúng xính trong bộ Comple, oai đáo để. Hỏi ra mới biết, giờ nó đang là trưởng cái phòng quản lý nhân sự. Nhà nó giàu sụ nhất nhì thị trấn. Người ta bảo, nó ngồi được vào cái ghế "lắm màu" ấy là nhờ có tiếng nói của ông bố vợ làm phó chủ tịch tỉnh về hưu can thiệp.

            Đúng như dư luận hiện nay, cơ chế "hậu duệ" là đứng hàng thứ nhất trong 5 cái nấc " Ệ" của công tác tuyển dụng và bổ nhiệm cũng phải!.   
                                                                                                                           C.M

04 tháng 11 2017

CHỈ TẠI CÁI MŨI DÀY

            Có một cô gái đến Câu lạc bộ đăng ký học nhảy. May quá, cô được phân công thầy hướng dẫn rất ga-lăng. Sau 1 ngày tập 2 người có vẻ đã kết thân, nên vừa nhảy vừa tâm sự có phần không còn cần ý tứ.
Hình minh họa (mạng)
            Thầy ghé sát tai trò nói nhỏ:
            - Hôm nay em mạc quần con mầu đỏ à?
           - Vâng, sao thầy giỏi thế? – cô gái ngạc nhiên hỏi lại. Nhưng thầy không trả lời mà chỉ nháy mắt cười.
Hôm sau cô gái cố tình thay quần lót màu khác. Và đố:
            - Thầy đoán xem em hôm nay em mặc quần con mầu gì?
            Thầy tủm tỉm cười, rồi trả lời chắc như đinh đóng cột:
            - Hoa, có chấm vàng!
            Đến đây thì không nghi ngờ gì nữa, cô học trò bái phục thầy sát đất.
          Hôm thứ 3 - để xác định cái tài đoán của thầy, cô gái quyết định không mặc quần con nữa, nhảy được một hồi cô mới thỏ thẻ hỏi:
            - Đố thầy, hôm nay em mặc quần gì nào?
            Ấp úng một hồi, thầy đành nói thật:
            - Xin lỗi, hình như mũi dày của thầy hôm nay nó bị nứt!.     

            !!!.