(Chút kỷ niệm về người thầy thuốc - Thương binh Hồ Sĩ Tuyển)
Hồi ký của: Mạnh Nguyên
Một thời báo chí đã tôn vinh cho anh
là người có “đôi bàn tay vàng”, đó là Hồ Sĩ Tuyển, một thương binh – một cán bộ
Y tế quê gốc Nghệ An. Nhưng anh đã dành trọn cuộc đời cho sự nghiệp chữa bệnh
cứu người ở tỉnh Lào Cai và phục vụ trên chiến trường Nam Bộ.
Tốt nghiệp y sĩ, Hồ Sĩ Tuyển tình nguyện lên công tác ở Lào Cai từ
những năm đầu thập kỷ 60 của thế kỷ trước. Năm 1968, khi chiến trường miền
Theo giai thoại của những người cùng thời thì Hồ Sĩ Tuyển là một cán bộ
chuyên môn ngành y, nhưng lại rất say sưa với nghiệp văn chương. Chuyện kể
rằng, khi vợ anh (Chị Nguyễn Thị Biên) sinh cháu đầu lòng đặt tên Hồ Sĩ Toại.
Vì mới sinh, mẹ thiếu sữa nên cháu bé khóc suốt. Trong khu tập thể gần đó có bác
sĩ Thu Lan - trưởng khoa Nhi, vì viêm họng nên cũng ho khục khặc. Khu sơ tán
của bệnh viện không có điện, chỉ leo lét mấy ngọn đèn dầu, lại luôn phải sẵn
sàng xuống hầm hào khi có còi báo động máy bay địch. Vậy mà Hồ Sĩ Tuyển vẫn vô
tư tức cảnh ra mấy câu thơ, làm mọi người phải bật cười. Anh ứng khẩu đọc:
“Thiếu sữa mẹ
Toại oe oe khóc,
Vắng hơi chồng
Lan khúc khắc ho.
Xóm làng kẻ
bực người lo,
Riêng bố cu Toại vẫn khò khò ngủ say!”.
Trong mấy năm chúng tôi học cùng chị Biên ở khóa Y sĩ 21 đã có chuyện
không vui xảy ra. Tự nhiên mấy ngày liền không thấy chị lên lớp, nghĩ là chị ốm
nên sau giờ học mấy đứa cùng tổ học tập rủ nhau đến hỏi thăm. Bước vào gian
phòng trong ký túc xá le lói ánh đèn dầu, thấy chị ngồi trầm lặng, nhưng rõ
ràng là chị đã khóc đỏ cả hai mắt. Gặng hỏi mãi chị mới nói:
- Chị buồn lắm, nhưng chuyện này chỉ nói để các em biết thôi, cấm được nói
ra ngoài. Là anh Tuyển nhà chị đã hy sinh rồi! - Chị nói trong nấc nghẹn.
- Đã có giấy báo tử chưa mà chị biết? – một người trong chúng tôi hỏi
lại.
Chị xua tay:
- Không, làm gì có báo tử, đêm qua chị nghe cái đài “Gươm thiêng Ái
quốc”, trong mục “Sinh Bắc-Tử
Thì ra là như vậy nên chị mới nhắc chúng tôi phải giữ kín, bởi ngày đó
người ta cấm ngặt việc nghe đài địch.
Sau này, khi đã ra trường một thời gian, mỗi người chúng tôi về một nơi
công tác. Một hôm, trên chuyến tàu từ thị xã Lào Cai về Bảo Thắng tôi đã tình
cờ gặp anh Tuyển - tôi nhận ra anh vì nghe được câu chuyện anh đang kể cho một
ai đó về những ngày bị địch bắt giam ở Sài Gòn, rồi sau chúng chuyển anh ra nhà
lao Côn Đảo. Mãi tới ngày Hiệp định Pa-ri được ký kết, anh mới được trao trả tù
binh ở bờ sông Thạch Hãn.
Chúng tôi nhận nhau là như vậy. Rồi tình hình biên giới có biến, tôi cũng
vào bộ đội. Chiến tranh nổ ra, các nhân viên bệnh viện Lào Cai phải tản đi khắp
nơi, chủ yếu là về Yên Bái. Riêng Hồ Sĩ Tuyển xuống bệnh viện Bảo Yên, khi
chiến sự vãn hồi thì anh được điều về bệnh viện huyện Bảo Thắng. Là người có
chuyên môn vững về ngoại khoa, lại được rèn luyện nhiều năm qua các chiến
trường nên Hồ Sĩ Tuyển luôn là một trong những phẫu thuật viên “cầm dao chính” ở các kíp mổ.
Được là đồng nghiệp với anh, tôi luôn cảm phục lòng yêu nghề và thái độ
làm việc của Hồ Sĩ Tuyển - đó là sự tận tâm, là trách nhiệm của người thầy
thuốc trước bệnh nhân. Hồi ấy phương
tiện khám, chẩn đoán bệnh đâu có được máy móc hiện đại như bây giờ. Thầy thuốc
phải thăm khám bệnh chủ yếu trực tiếp bằng kinh nghiệm lâm sàng. Nhưng với Hồ
Sĩ Tuyển, anh không bao giờ đưa ra quyết định khi chưa chắc chắn về chẩn đoán. Không
ít trường hợp, dù đã khám đi khám lại nhiều lần, nhưng đến đêm, nằm vắt tay lên
trán vẫn không thể ngủ nổi, vì chưa chắc chắn với chẩn đoán của mình. Thế là dù
nửa đêm người thầy thuốc già ấy lại lọ mọ đến phòng bệnh để khám lại.
Ra khỏi bộ đội trở về cơ quan huyện, tôi và Hồ Sĩ Tuyển được sinh hoạt cùng chi bộ, có dịp
gần gũi nhau nhiều hơn. Rảnh rỗi anh thường tâm sự với tôi về những kỷ niệm vui
buồn trong cuộc đời binh lửa. Tôi nhớ nhất là câu chuyện “Người có mộ khi vẫn
còn đang sống” của anh. Anh kể:
“Sau khi tập trung, biên chế
thành các đội phẫu thuật, chúng tôi được điều vào mặt trận phía
Sau khi được cứu chữa và điều trị ổn định các vết thương, địch chuyển anh
ra nhà lao Côn Đảo…Và được trao trả tù binh vào giữa năm 1973.
Anh nói, việc đài địch đưa tin anh đã chết ở trận càn phía Tây Sài Gòn
là chưa chính xác. Vì Binh Dương là ở phía Đông Sài Gòn – hay còn gọi là chiến
trường Đông
Sau này, khi có dịp đi công tác và quay lại thăm vùng đất “Chiến trường
xưa”, Hồ Sĩ Tuyển đã ngỡ ngàng khi thấy ở Nghĩa Trang tỉnh Bình Dương có ngôi
mộ đề tên “Liệt sĩ Hồ Sĩ Tuyển, Quê Nghệ An, hy sinh ngày…”.
Thì ra, sau trận càn của địch năm ấy, số đồng đội còn sống đã quay lại làm
công tác tử sĩ, nhưng những người đã hy sinh không mấy người còn nguyên vẹn. Họ
đành điểm số đồng đội mất tích, chia cho mỗi người một phần thi thể gom nhặt
được, chôn cất và ghi thành bia mộ, có ai mà biết được anh vẫn đang sống và bị
địch bắt, giam cầm.
Tôi viết lại câu chuyện này coi như một nén tâm nhang cho người đồng
nghiệp – người bạn vong niên tài hoa và đức độ, nay anh cũng đã đi về cõi vĩnh
hằng!.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét