Cả Mõ

camoz77.blogspot.com/

16 tháng 4 2012

BÀN THÊM VỀ THỰC HIỆN NẾP SỐNG VĂN MINH TRONG VIỆC CƯỚI VIỆC TANG


Cách đây hơn 10 năm, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam đã có Chỉ thị số: 27/CT-TW “Về thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội”. Chỉ thị của Bộ Chính trị đã được cấp ủy, chính quyền các cấp triển khai bằng tuyên truyền, giáo dục và hướng dẫn để cán bộ, đảng viên, nhân dân thực hiện. Nhìn chung, sự vào cuộc của các cấp, các ngành đã tạo nên chuyển biến khá tích cực, phục dựng lại được những lễ hội truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, hạn chế và xóa bỏ nhiều hủ tục lạc hậu như thách cưới, cướp dâu, tảo hôn; để người chết lâu trong nhà.v.v.Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả đã đạt được, thì trên từng mặt vẫn tồn tại một số điểm đáng bàn. Đó là những hủ tục bảo thủ, với tính chất “lệ làng” hoặc sự lợi dụng gây khó chịu từ những người làm dịch vụ hiếu - hỉ.

            Trước tiên nói về việc cưới, đồng nghĩa với việc vui, bởi nó là sự chắp nối “uyên ương” cho đôi trái gái; là sự mở đầu để hình thành một “tế bào” mới cho xã hội. Vậy mà giờ đây, phía sau các đám cưới lại tồn tại không biết bao nhiêu là phiền muộn. Với các bậc phụ huynh, mỗi khi chuẩn bị đám cưới cho con, không mấy người có được cảm giác thực sự vui vẻ. Cho dù gia đình khá giả, không phải lo lắng đến vấn đề kinh tế, thì việc lập danh sách mời ra sao, rồi phải đi mời thế nào là cả một sự đắn đo, cân nhắc. Đã có vị phụ huynh tâm sự về các bước chuẩn bị đám cưới cho con là cả nỗi một nỗi lo, có khác nào “Trông trời, trông đất, trông mây; Trông lên, trông xuống khôn tày nỗi lo”. Từ đi mời đến đặt tiệc, thuê địa điểm, đón khách, tiếp khách...là một chuỗi công việc phức tạp. Có thể nói, phát xong tập thiếp mời cho các tân khách cũng coi như đã hoàn thành đến 90% công việc. Đi mời ngày nay cũng không giống trước đây, có người không được mời thì trách móc, nhưng nếu được mời thì nhất thiết phải có người “Môn đăng hậu đối” trực tiếp đến trao thiếp mới được coi là trân trọng. Nhưng rồi tiệc cưới nào cũng được diễn ra một cách nháo nhào, theo kiểu ăn tập thể. Gần đây không ít đám cưới, các mâm cỗ chỉ được thực khách chọc ngáy chút đỉnh, khi mọi người đứng lên thì các món ăn gần như vẫn còn nguyên. Nguyên nhân không hẳn là cỗ không ngon, thậm chí chủ tiệc đã phải lao tâm khổ tứ để tìm ra thực đơn “ưu việt” nhất. Có những món trước đây được coi là “cao lương mỹ vị”, như gà hầm, chim quay thì bây bây giờ cũng trở nên bão hòa rồi. Ngoài ra, nỗi lo thực phẩm không an toàn cũng góp phần làm cho thực khách cảnh giác với các món được coi là  “thực đơn cao cấp này”. Bởi vậy, cỗ “ế” vẫn diễn ra. Quả thực, đã có không ít đám cưới là nguyên nhân của những vụ ngộ độc tập thể, vì thực phẩm và chế biến không đảm bảo vệ sinh. Hậu của các tiệc cưới còn là những vụ tai nạn giao thông, bởi thực khách say rượu, điều khiển xe rồi tự gây tai nạn cho mình và cho người khác.

            Tuy chưa có một điều tra xã hội cụ thể nào, nhưng không ít người đi dự đám cưới đã tâm sự, giá việc cưới xin giản đơn đi, người đến dự chỉ mừng thôi mà không “phải” ăn cỗ, có khi lại đỡ khổ cho cả chủ lẫn khách. Điều này có thể chưa đúng với tất cả mọi người, nhưng có thể sẽ đúng với đa số. Vào mùa cưới, có người phải đi dự đến 3 - 4 đám trong 1 buổi sáng, vì vậy chỉ còn cách là cho phong bì đi thay mặt. Nhưng không phải đám nào cũng có thể thay mặt bằng phong bì, cho nên tình trạng đi ăn “đám” theo kiểu “chạy sô” của thực khách thường được áp dụng cho những “ngày đẹp”. Tưởng rằng ăn lắm thì no, nhưng đến đám nào cũng vội, đám nào cũng chỉ lo làm “thủ tục” để rồi sớm “rút quân”. Thành thử, sau những bữa ăn mệt nhoài ấy, thực khách lại trở về với cái bụng lưng lửng rượu, nhiều khi phải “cấp cứu” bằng cơm nguội hoặc mì tôm để xử lý cho dạ dày khỏi bị kích ứng. Cũng có người ước rằng, giá đám cưới được quay về với cách tổ chức “Nếp sống mới” như những năm 60 - 80 của thế kỷ trước, xem ra lại hay hơn. Điều ấy chứng tỏ cái sự “bao giờ cho đến ngày xưa” vẫn còn đúng!.

            Với các đám tang, nhìn chung  cũng đã có tiến bộ. Đặc biệt là ở các vùng đô thị, người ta quan niệm “Nghĩa tử là nghĩa tận”. Vì vậy mỗi khi gia đình nào đó có “đám” thì đại diện khu dân cư và chòm xóm đều tận tình vào cuộc, người đến phúng-viếng cũng tự giác, tùy tâm. Sự bày vẽ ăn uống ở nhà có tang được giản tiện đáng kể, vì hầu hết người đến viếng đều không ở lại ăn uống. Hiện tượng này đã tự nhiên hình thành như một tập quán đẹp. Ở thôn quê thì phần lớn việc tổ chức lễ tang đã được ghi vào hương ước. Không còn hiện tượng để người chết quá 48 giờ trong nhà, nhiều hủ tục mất vệ sinh trong đồng bào dân tộc thiểu số đã được hủy bỏ. Tuy vậy, trong việc tang cũng không phải không còn những điều đáng bàn. Đó là tình trạng ăn uống ở nhà đám kéo dài nhiều ngày còn diễn ra ở khu vực nông thôn, gây nên sự tốn kém cho tang chủ. Nhất là việc bố trí nấu nướng và ăn uống nhập nhuội, nên không tránh khỏi mất vệ sinh, dễ xảy ra ngộ độc thức ăn. Để phục vụ cho nghi thức tang lễ, nhiều nơi đã hình thành các “Phường Bát âm”, còn có tên nôm là “Đội kèn hiếu” làm dịch vụ khá chu tất. Đội kèn vừa làm nghi thức đón rước, dẫn chương trình, cảm ơn các đoàn đến viếng, vừa tranh thủ khóc thuê, làm thủ tục cúng tế linh hồn người chết theo phong tục. Nếu như các hoạt động dịch vụ của đội Kèn được thực hiện trang trọng và giản đơn thì cũng là việc cần thiết cho nghi lễ của đám tang. Nhưng hiện nay không ít đội kèn đã biến tướng, lợi dụng niềm tin tâm linh, tạo thêm sự rườm rà về nghi thức tế lễ. Có đám, việc thực hành cái gọi là “cúng cơm” cho người đã khuất kéo dài đến hàng giờ, gây tốn thời gian, phiền hà cho người đến phúng viếng vì phải chờ đợi. Khổ hơn là các thành viên của gia đình tang chủ, họ phải quỳ phục trong suốt thời gian thầy hành lễ, làm cho họ vốn đã đau buồn, càng thêm mệt mỏi. Có không ít đám, kèn trống kéo dài quá 22 giờ đêm, cho âm thanh than khóc, trống kèn được tiếp qua tăng âm công suất lớn, phóng đi xa hàng mấy trăm mét còn nhức óc đinh tai. Sự bày vẽ, phiền hà của đội kèn không phải không có lý do, vì đó là một khâu dịch vụ, cho nên càng phức tạp thì chi phí càng cao. Phải chăng đây cũng là một hình thức lợi dụng làm tiền!. Có điều, sự khó chịu này lại nằm trong khuôn khổ của cái gọi là “tế nhị” nên khó nhắc nhở ngay trong khi nhà đang có đám.   

            Chúng ta không thể phủ nhận những thành quả tốt đẹp trong quá trình thực hiện Chỉ thị của Trung ương. Song cũng cần nhìn nhận nghiêm túc về những hạn chế, tồn tại để có hướng khắc phục. Việc khắc phục những hủ tục và lễ nghi rườm rà, tốn kém không thể chỉ dựa trên văn bản. Vì, ngay ở một số văn bản của các cấp đưa ra cũng chỉ chung chung. Ví dụ, có nơi đưa ra quy định, việc mời khách đám cưới chỉ khống chế trong số người nhà, bạn bè thân hữu của đôi trai gái và cha mẹ chú rể, cô dâu. Nghe ra có vẻ như đã khống chế khách mời, nhưng áp vào thực tế lại không phải vậy. Bởi vì, chẳng có một tiêu chí nào đánh giá được đâu là bạn bè thân-sơ. Mà càng những người có quyền cao, chức trọng thì bạn hữu càng đông, ai được mời tất người đó được xếp vào hàng “thân hữu”. Vì thế, càng là đám cưới của con cháu cán bộ lớn thì số thực khách càng đông. Thế mớí biết, “Cán bộ đi trước, làng nước theo sau” trong quá trình triển khai các chủ trương của Đảng cũng không phải là dễ.

            Để Chỉ thị của Trung ương tiếp tục thực hiện có hiệụ quả. Thiết nghĩ, ngoài các biện pháp tuyên truyền, giáo dục. Các cơ quan chức năng, các đoàn thể chính trị xã hội cần có sự phối hợp, tham mưu cho cấp ủy và chính quyền, xây dựng mô hình đám cưới “sống mới” kiểu mẫu. Việc tổ chức mô hình mẫu cũng nên vận động tình nguyện của một số gia đình cán bộ, đảng viên làm thí điểm. Nhưng phải do đoàn thể đứng ra tổ chức. Sau đó rút kinh kinh nghiệm, phổ biến đại trà, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy và chỉ đạo của chính quyền. Quy định, tất cả các đám cưới của gia đình cán bộ, đảng viên phải làm theo mô hình mẫu.

            Đối với việc tang, các “đội kèn” hoạt động nhất thiết phải có đăng ký qua cơ quan quản lý văn hóa địa phương. Quy định hoạt động dịch vụ và nghi thức tang lễ phải do cơ quan văn hóa địa phương tham mưu cho chính quyền, đưa vào quy chế nếp sống văn hóa ở khu dân cư, được phổ biến cho tất cả các đội kèn, yêu cầu họ thực hiện nghiêm túc. Nếu vi phạm sẽ phải chịu xử lý hành chính và rút giấy phép hoạt động.

Trong khuôn khổ bài viết này, người viết chưa dám lạm bàn rộng đến nhiều lĩnh vực khác, chỉ mới xin nhận xét tập trung vào 2 loại hình là việc cưới và việc tang. Hy vọng đóng góp được một vài ý tưởng cho quá trình thực hiện Chỉ thị của bộ Chính trị đạt được hiệu quả thiết thực, góp phần gìn giữ các giá trị văn hóa truyền thống. Bởi giá trị truyền thống chính là sự “Gạn đục khơi trong” trong truyền thống nói chung. Sự chọn lọc ấy nhằm tìm ra cái tiến bộ, cái đẹp vĩnh hằng mang giá trị phổ biến được đại đa số công chúng chấp nhận. Từ đó nhằm loại bỏ sự lợi dụng và những hủ tục rườm rà, lạc hậu để xây dựng nếp sống văn minh, lành mạnh ở cộng đồng.      

                                                                                               M.N

13 tháng 4 2012

RỘN RÀNG LỄ HỘI ĐẦU NĂM




Tết Nguyên đán cổ truyền không chỉ là tết chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, ngoài ý nghĩa đón mừng năm mới, thờ cúng tưởng nhớ gia tiên, tổ chức các sinh hoạt văn hóa dân gian và cộng đồng. Sau Tết còn có các nét đẹp văn hóa truyền thống phong phú và hấp dẫn, thông qua các Lễ hội đầu năm phản ánh bản sắc đa dạng và ý nghĩa tâm linh trong đời sống sinh hoạt cộng đồng.

Từ truyền thống của nền nông nghiệp lúa nước, Lễ hội tịch Điền của Người Kinh là lễ hội mang ý nghĩa “khuyến nông” và là nét đẹp văn hóa trở về nguồn cội. Lần đầu tiên nghi thức lễ hội này được diễn ra vào thế kỷ thứ X ở Hà Nam, trên quê hương vua Lê Đại Hành. Trong Lễ hội có tái hiện hình ảnh Hoàng đế cùng xuống rộng để cày đường cày đầu năm với nông dân. Sau nhiều năm thất truyền, nay Lễ hội đã được khôi phục lại. Năm 2010, lần đầu tiên chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết đã mặc áo nông dân, cầm cày thực hiện nghi lễ “Tịch điền” ở Đọi Sơn.

Tại các địa phương Trung du và miền núi phí Bắc, đồng bào các dân tộc thiểu số cũng có các loại hình lễ hội tương tự, như lễ Hội “Xuống đồng” - người Giáy gọi là “Roóng Poọc”. Đây là hội xuân được tổ chức vào ngày Thìn tháng giêng. Đặc thù của lễ hội là cầu mùa, cúng thần làng, ném còn, kéo co, hát giao duyên, đánh én... Theo suy nghĩ của người Giáy, lễ hội cúng thần cai quản địa bàn cầu phù hộ cho ngô, lúa tốt tươi, mùa màng phong đăng, chăn nuôi phát triển, xóm làng bình yên, mọi người khoẻ mạnh. Vì vậy, nếu vì một lý do nào đó mà không tổ chức được thì năm đó mọi nhà, mọi người làm ăn thấp thỏm. Chẳng may một sự cố nào đó xảy ra như lũ lụt, sạt lở ruộng nương, bệnh dịch thì người ta sẽ cho là do không Roóng Poọc.

Với người Tày,  “Xuống đồng” còn gọi là lễ hội “Lồng Tồng” nhằm mục đích cầu mùa. Cả phần lễ và phần hội đều tập trung phản ánh ước nguyện của dân làng, mong cho được mùa; người người khoẻ mạnh. Vì vậy trải qua rất nhiều năm, kể cả khi đời sống còn nhiều khó khăn nhưng lễ hội Lồng tồng ở Lào Cai vẫn được giữ gìn và khơi dậy nét đẹp truyền thống, ca ngợi tinh thần cần cù lao động và hướng tới những điểu tốt đẹp cho cuộc sống.

Cùng ý nghĩa như vậy, người Dao có lễ hội Trầu sun. Đây cũng là một trong những nghi lễ cầu mùa rất đặc trưng của đồng bào Dao Đỏ, được tổ chức hằng năm ở các làng bản, hoặc vài ba năm một lần vào các dịp đầu xuân. Cầu cho mưa thuận gió hoà, cây cối phát triển, mùa màng tốt tươi, không xảy ra dịch bệnh, nàh nhà ấm no, hạnh phúc.

 Lễ hội Trầu Sun được diễn ra trên một khu đất bằng phẳng, nơi có không gian thoáng đãng. Ngày lễ chính, các gia đình trong làng đóng góp, mua sắm lễ vật, như: Xôi, lợn, gà, giấy tiền, vàng hương để cầu các vị thần linh trên trời, dưới đất phù hộ cho dân làng có cuộc sống bình an, thịnh vượng.

          Sau khi chuẩn bị xong lễ vật, thầy cúng thay mặt dân làng thắp hương khấn báo thần làng, trời đất phù hộ để dân làng mở hội cầu mùa, cầu phúc, cầu tài cầu cho con trai làng trên, con gái làng dưới thuận duyên, bén lứa, nên vợ, nên chồng, nhà nhà hạnh phúc, ấm no…

Sau phần lễ là phần hội, với các cuộc thi văn hoá – văn nghệ, thi đấu các môn thể thao truyền thống. Đội văn nghệ các nơi tổ chức thi múa, hát, trích đoạn nghi lễ  cấp sắc của người Dao… Các trò chơi, trò diễn càng sôi nổi hấp dẫn bởi sự góp mặt của cộng đồng các dân tộc anh em từ khắp các địa phương lân cận đến xem và cổ vũ.

Từ đặc trưng của núi rừng Tây bắc, lễ hội “Hát qua làng”  cũng là nét văn hóa độc đáo của đồng bào Dao Tuyển, thường được tổ chức vào dịp Tết Nguyên đán hằng năm.

Tại thôn Nậm Sưu, xã Bản Phiệt, cứ mỗi dịp đầu xuân mới lại tưng bừng mở lễ hội “Hát qua làng” đón bà con gần xa tới thăm và thi hát giao duyên truyền thống. Theo nghệ nhân văn hoá dân gian Triệu Văn Quẩy, người Dao Tuyển ở xã Bản Phiệt: Từ xa xưa vùng đất sinh sống của người Dao Tuyển là ở trên núi cao, không có chợ nên Tết đến, bà con thường mở lễ hội hát đối đáp giữa khách với chủ nhà. Sau này gọi là lễ hội “Hát qua làng” để mời các làng bản quanh vùng tới thi hát, cầu mong cho mưa thuận, gió hoà, mùa màng bội thu, mọi nhà đều bình an, hạnh phúc.

Đây cũng là dịp gặp gỡ của những người bạn tâm giao ở xa, thân thiết với nhau qua các dịp lễ hội năm trước. Từ những đêm ngày thi hát giao duyên đầu xuân, đã có những cặp trai gái nên duyên chồng - vợ.

          Lễ hội “Hát qua làng” của người Dao Tuyển thôn Nậm Sưu tổ chức đầu năm Tân Mão- 2011 được khá đông bà con các dân tộc phía Bắc huyện Bảo Thắng cùng các chiến sỹ trạm biên phòng Bản Phiệt đến cổ vũ nhiệt tình, tham gia thi hát giao duyên và trực tiếp thi đấu các môn thể thao, góp vui cho ngày hội.

Lễ hội Gầu Tào tại xã Phong Niên-h. Bảo Thắng
Một lễ hội nữa, đó là lễ hội “cúng rừng”- Lễ hội này thường được tổ chức ở khu rừng cấm của làng. Lễ cúng được đặt nơi có hai cây cổ thụ gọi là "Cây bố và cây mẹ". Đồ dâng cúng còn có "mâm Đất - Nước", tiếng Nùng là "Pặt chiêng" - cúng những người hy sinh bảo vệ Tổ Quốc và mâm cúng người bảo vệ làng bản. Người hành lễ đọc bài cầu chúc cho mưa thuận, gió hòa, rừng cây luôn xanh tốt, mùa màng sinh sôi. Nhân dịp này già làng, trưởng bản nhắc mọi người không được phá rừng, không được thả rông gia súc, đồng thời phân khu đất cho từng nhà tăng gia, làm vườn và bảo vệ … Sau phần lễ, mọi người cùng ký cam kết bảo vệ rừng, trồng nhiều cây xanh trên những mảnh vườn, triền đồi. Cùng thưởng thức men rượu thơm nồng, vui với các trò chơi dân gian đậm đà bản sắc dân tộc như: bịt mắt bắt dê, ném còn, đu quay, đẩy gậy, múa gậy, bắn nỏ…

Việc phục dựng các lễ hội truyền thống trong những năm gần đây là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Các lễ hội đầu Xuân không chỉ đáp ứng nhu cầu tâm linh, tạo sân chơi bổ ích cho người dân lao động sau một năm vất vả mưu sinh mà còn góp phần bảo tồn bản sắc văn hóa, giáo dục ý thức cộng đồng; động viên người dân bảo vệ tài nguyên, môi trường và đoàn kết xây dựng chuẩn mực văn hóa ở các khu dân cư.

                                     
                                                                                                                Mạnh Nguyên

12 tháng 4 2012

RƯỢU VỚI GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM


          Uống rượu và chúc rượu từ lâu đã được coi là một nét văn hóa truyền thống của nhiều quốc gia-dân tộc. Song, nếu hiểu truyền thống nói chung là sự kết tinh, chung đúc, tồn đọng suốt chiều dài hàng ngàn năm lịch sử của nhân loại, thì sự chung đúc đó được ví như lặng đọng của “dòng sông” lịch sử. Như vậy, truyền thống sẽ được mang theo cả 2 nghĩa tích cực và tiêu cực – rượu, với nghĩa văn hóa truyền thống cũng không nằm ngoài quy luật chọn lọc này.

          Ở nước ta, cùng với sự phát triển đi lên của xã hội, những năm gần đây mức sống trong nhân dân các dân tộc ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực do kinh tế-xã hội phát triển mang lại thì các loại bệnh do ăn uống quá ngưỡng gây nên ngộ độc rượu mãn tính, rối loạn chuyển hóa như những bệnh về gan, thận, tim mạch. Cụ thể là béo phì, máu nhiễm mỡ, tăng huyết áp, gút, tiểu đường tuýp II ...cũng xuất hiện khá đa dạng. Cho nên văn hóa ẩm thực không chỉ là sự phong phú của các món ăn, đồ uống mà còn là không khí thoải mái trong các bữa ăn và việc ăn uống thế nào để thực sự hữu ích cho cuộc sống.

          Điểm lại ứng xử trong uống rượu, chúc rượu ngày nay đang gợn lên những “hạt sạn”, làm vẩn đục giá trị truyền thống về nét văn hóa đáng ra cần được tôn trọng và nâng niu. Có thể nói, chúc rượu nhau thực sự là một nét sinh hoạt văn hóa rất đời thường, nhưng không vì thế mà không cần có chuẩn mực nhất định. Nếu việc chúc rượu là để thể hiện tình thân hữu, để tăng thêm sự hiểu biết về nhau, tỏ bày tình cảm hoặc xóa đi những ngăn cách ban đầu thì thật là đáng quý. Nhưng, trong không ít những cuộc vui, việc chúc rượu đã không thể hiện được nét đẹp này. Bời vì, người chúc rượu đã biến cái sự thanh tao, thân thiện trong hành động chúc, thành những cử chỉ thô thiển và kệch cỡm. Có người còn lấy ly rượu làm thước đo tình cảm, chén rượu chúc phải được rót đầy tràn, rồi cứ chạm là phải uống hết “trăm phần trăm”, không cần biết người được chúc có khả năng tỉu lượng đến mức nào. Nếu ai đó vì sức khỏe hoặc khả năng uống rượu hạn chế, không uống hết thì được coi như “không hết lòng, hết dạ”. Buồn hơn nữa, vẫn có người coi uống được nhiều rượu như một biểu hiện của “sức mạnh”, mượn hình thức chúc rượu để ép nhau cho đến khi gục hẳn mới buông tha. Kiểu chúc rượu ấy đã không ít trường hợp gây nên tai họa cho sức khỏe, là nguyên nhân làm tăng tai, tệ nạn và nhỡn tiền là gây nên những đảo lộn của cuộc vui.

Khi vui chén chú, chén anh
Đến khi quá chén chuyển thành chén...ông!
          Có những “con sâu rượu” còn lý sự rằng, rượu đưa người ta đến cảm hứng nghệ thuật. Chẳng vậy mà các bậc tiền nhân cũng đã từng lấy rượu làm chất men xúc tác cho thi hứng “bầu rượu, túi thơ” đó sao (?). Nhưng họ không biết rằng, từ rượu để tìm ra cảm hứng cho thơ ca - nghệ thuật, các trí thức thời xưa chỉ nhâm nhi ly rượu, thưởng ngoạn ánh trăng mà “tức cảnh sinh tình”. Có khi cũng từ bầu rượu nồng mà dốc bầu tâm sự: “ Rượu ngon không có bạn hiền, không mua không phải không tiền không mua”... Điều ấy hoàn toàn khác với cách uống cạn cả ly tống, tu cả cốc vại, uống cả ca, uống ứng ực cho đến say mềm, đánh rơi  mất nhân cách cũng chẳng hay. Uống như vậy thì làm sao còn cảm hứng lành mạnh được. Có chăng đấy chỉ là cung cách của những kẻ phàm phu tục tử mà thôi!.

          Ở cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tục uống rượu và chúc rượu đã là một sinh hoạt văn hóa ẩm thức khá đậm nét. Tìm hiểu về phong tục uống rượu và chúc rượu  truyền thống của một số dân tộc ít người cũng không thấy có kiểu gò ép, khiên cưỡng như bây giờ. Trong đồng bào Dao trước đây, dù cả khách và chủ có thể ngồi thâu đêm bên mâm rượu, nhưng việc chúc nhau cũng chỉ là chạm chén cho rôm cuộc vui, còn khả năng uống được bao nhiêu là tùy ở từng người. Khi khách đã cảm thấy đủ thì xin phép không uống nữa và tự lấy cơm ăn.

            Có lần đến công tác ở một vùng đòng bào Dáy, tôi được một già làng cho biết, tục uống rượu của người Dáy cũng có những quy định thật thoải mái. Mặc dù chén rượu của khách luôn được rót thật đầy, nhưng chạm chén chúc nhau thì mọi người tùy khả năng mà uống, cứ vơi chén thì chủ nhà lại tiếp thêm, nhưng không bao giờ ép phải uống cạn. Nếu khách cảm thấy không muốn uống nữa thì xin phép được ăn cơm, chén rượu dù còn đầy cứ việc đẻ nguyên lại đó. Tôi đem chuyện này nói với anh Sần Quáng (Nguyên trửng ban dân tộc tỉnh Lào Cai) và được Anh xác nhận đúng như vậy. Anh Sần Quáng có giải thích thêm: Phong tục này của đồng bào Dáy là muốn nói lên rằng, chủ nhà tỏ lòng mến khách thì mời mọc nhiệt tình. Chén rượu luôn đầy thể hiện gia chủ không thiếu rượu. Nhưng tôn trọng sở thích của thực khách, không gò ép gây cho khách mất tự do.

          Như vậy, uống rượu và chúc rượu của cha ông chúng ta từ ngàn đời-cho dù ở mỗi tộc người có khác nhau đôi chút, nhưng đều có nét chung là rất Văn hóa. Không hề có sự ép uống hay sự thi thố trong uống rượu, uống theo kiểu “tỉ thí” như ngày nay. Tiếc thay, truyền thống ất lại chưa được phát huy, ngược lại còn bị bóp méo thành kiểu "chúc" ép nhau, vượt ra ngoại chuẩn mực văn hóa dân tộc. Phải chăng, những gì vốn nó là văn hóa mà khi bị vượt ngưỡng thì đều trở thành phi văn hóa. Câu tục ngữ “Thái quá thành bất cập” là như vậy.    

          Để rượu tiếp tục được tồn tại trong đời sống xã hội với đầy đủ giá trị nhân văn của nó, uống rượu và chúc rượu cần phải giữ được nét văn hóa lành mạnh-bởi giá trị truyền thống chính là sự “gạn đục, khơi trong” trong truyền thống nói chung. Sự chọn lọc ấy là tim ra cái tiến bộ, cái vẻ đẹp vĩnh hằng và giá trị phổ biến, được đại đa số công chúng chấp nhận để tiếp tục bổ sung cho kho tàng di sản Văn hóa Việt Nam.

                                                                                                                             M.N

06 tháng 4 2012

NGÔN NGỮ VỚI CỘNG ĐỒNG


          Có lần đến công tác ở một xã nọ, chúng tôi được vị lãnh đạo xã có vóc người khá đường bệ tiếp chuyện. Không biết vì thói quen hay muốn tỏ ra mình là “dân dã” mà vị lãnh đạo này cứ luôn mồm tuôn ra những câu đại loại như: “đếch cần,”, “đếch biết”, “làm cái đ...gì”.v.v.Thậm chí hứng lên còn đệm thêm không ít những câu chửi thề rất tục, làm cho người nghe cũng phát ngượng.

            Chúng ta đều biết, tiếng nói là di sản văn hóa phi vật thể của mỗi quốc gia-dân tộc. Đồng thời, đó cũng là phương  tiện giao tiếp mà chỉ có độc nhất, vô nhị ở loài người.

            Xét ở khía cạnh nào đó, lời nói cũng được coi là thước đo về trình độ văn hóa, chuẩn mực nhân cách và cao hơn còn được coi như tiêu chí đánh giá phẩm chất một con người. Chẳng vậy mà để răn dạy con cháu, từ ngàn đời xưa cha ông chúng ta đã lưu truyền lại trong kho tàng văn học dân gian những câu phương ngôn như:

            “Chim khôn kêu tiếng rảnh rang,
Người khôn ăn nói dịu dàng dễ nghe”

Hoặc là:

“Lời nói chẳng mất tiền mua,
Lựa lờ mà nói cho vừa lòng nhau”

          Việc sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp còn là sự thể hiện tính tự trọng và tôn trọng với đối tượng giao tiếp. Cho nên với những người làm lãnh đạo, (Dù là lãnh dạo ở cấp cơ sở) thì việc nói năng, giao tiếp cũng cần hết sức thận trọng. Vì chính họ là người thường xuyên tiếp xuc với nhân dân hoặc đại diện cho nhân dân tiếp xúc đối ngoại với nhiều tầng lớp trong xã hội.

            Ngày nay, đội ngũ cán bộ cơ sở của chúng ta phần lớn đều được học hành khá tử tế. Song tiếc rằng, vẫn còn có người chưa thực sự áp dụng được những điều đã học vào cuộc sống, còn để cho thói quen ăn nói kiểu “tùy hứng” tạo ra những dấu ấn không đẹp về văn hóa ứng xử với cộng đồng./.

                                                                                                             M.N
                                                                      

05 tháng 4 2012

KHAI THÁC VÀNG TRÁI PHÉP TRÊN SÔNG HỒNG VẪN NGOÀI TẦM QUẢN LÝ




          Tỉnh Lào Cai là một địa phương giàu tiềm năng khoáng sản. Ngoài những mỏ lớn như APATITE Cam Đường, sắt Văn Bàn, đồng Bát Xát... và một số mỏ vật liệu xây dựng đã được khai thác với quy mô và công nghệ hiện đại, thì cũng còn không ít các mỏ á kim, kim loại và khoáng sản vật liệu có giá trị chưa có kế hoạch khai thác. Mặc dù việc quản lý tài nguyên, khoáng sản đã được luật hóa, được chính quyền và các ngành chức năng tích cực tuyên truyền, đi đôi với các biện pháp quản lý hành chính khá tích cực. Nhưng đây đó, tình trạng khai thác tài nguyên khoáng sản lậu vẫn diễn ra, ngoài tầm kiểm soát.
          Trước tết Nguyên đán Nhâm Thìn, theo phản ánh của nhân dân, phóng viên đài Truyền thanh- Truyền hình (TT-TH) huyện Bảo Thắng đã nhờ một thuyền đánh cá, tiếp cận 2 tầu làm vàng trên sông Hồng. Đây là 2 con tàu được trang bị khá hiện đại, nằm ngay sát phía bờ tả ngạn, thuộc địa phận xã Phố Lu. Do tiếp cận vào ngày giáp Tết, nên hoạt động khai thác của chủ tầu đã tạm nghỉ. Nhưng quan sát ngay trước mũi tàu (Về phía thượng lưu) vẫn còn đó những cồn cát, sỏi từ hoạt động đào đãi thải ra, những cồn cát, sỏi này nhô cao như một bãi bồi và chạy dài đến hàng trăm mét. Ai giám khẳng định những đống cát, sỏi lớn này không là nguyên nhân tạo nên sự biến đổi căn bản của dòng chảy. Đây còn là nguyên nhân tiềm ẩn của nguy cơ sạt lở không theo quy luật vào mùa lũ ở 2 bờ Sông. Chưa biết quá trình đãi vàng, những con tàu này sẽ còn xả thải thêm những hóa chất nguy hiểm gì xuống dòng sông?.
          Theo phản ảnh của người dân thôn Tả Hà, xã Sơn Hà - bên bờ phía hữu ngạn thì hoạt động của 2 tầu làm vàng này đã tồn tại nhiều tháng, thậm chí hàng năm nay trên đoạn sông Hồng giáp giới giữa 2 huyện Bảo Thắng và Bảo Yên. Nếu có động từ phía chính quyền địa phương huyện này thì tầu lại nhổ neo chuyển sang địa phận huyện kia.
Sau tết, nhóm phóng viên chúng tôi tiếp tục thị sát trên bờ và quan sát nơi  các tầu vàng neo đậu, được trực tiếp chứng kiến hoạt động khai thác của 2 con tầu lớn này khá sôi động, công khai, tiếng máy nổ, tiếng guồng cát vang xa đến hàng cây số. Mấy nông dân đang chăm bón rau màu trên bãi sông còn cho biết, hoạt động khai thác của các con tàu này chỉ nghỉ mấy ngày tết và đã hoạt động trở lại gần một tuần nay. Hoạt động đào đãi được diễn ra suốt ngày đêm. Về đêm, ngòai tiếng máy nổ vang rền, tiếng ầm ầm của guồng cát, sỏi thì ánh điện của tàu còn chiếu sáng cả một đoạn sông. Hoạt động ồn ã của các tầu này không chỉ gây ảnh hưởng đến giấc ngủ của người dân gần đó, mà nỗi lo hơn của người dân là tình trạng xói lở đã lấn sâu vào phía bờ đối điện. Bà con cũng cho biết, khi bị phản đối và yêu cầu tầu dừng hoạt động, chủ tầu còn ngang nhiên tuyên bố, họ đã được được cơ quan chức năng cấp giấy phép cho khai thác rồi(!).
          Trả lời câu hỏi của Đài Truyền thanh-TH huyện Bảo Thắng, ông Chủ tịch UBND xã Phố Lu - địa bàn có 2 tầu khai thác vàng đang hoạt động cho biết, xã cũng đã yêu cầu chủ tàu phải có giấy phép mới được hoạt động, gần đây phòng Tài nguyên - Mổi tường của huyện Bảo Thắng cũng có nhắc nhở chủ tầu về vấn đề này. Nhưng lạ thay, 2 con tầu vẫn hoạt động một cách ngang nhiên, hình như họ không hề bận tâm gì đến sự nhắc nhở của chính quyền cơ sở và cơ quan chức năng Huyện.
          Để làm rõ việc khai thác của các tầu này có hợp pháp hay không, Đài Truyền thanh - Truyền hình Bảo Thắng đã gọi điện cho phòng quản lý Tài nguyên khoáng sản, thuộc sở Tài Nguyên & Môi trường tỉnh Lào Cai. Sau khi nghe nói là chủ tầu tuyên bố có giấy phép khai thác, ông Lê Ngọc Dương, trưởng phòng đã rất ngỡ ngàng và khẳng định, Sở chưa bao giờ cấp phép cho việc khai thác vàng trên sông Hồng. Ông trưởng phòng cũng hứa, sẽ báo cáo với lãnh đạo Sở để sớm cử thanh tra về làm việc.
           Chúng ta đều biết, việc khai thác khoáng sản vô tổ chức không chỉ làm thất thoát tài nguyên quốc gia, mà quan trọng hơn là gây ô nhiễm môi trường, gây biến đổi dòng chảy của sông, ngòi; biến đổi kết cấu hạ tầng, tạo nên những xói lở không theo quy luật, làm ảnh hưởng trực tiếp trở lại với các công trình ven sông, suối và đời sống của nhân dân. Vì vậy, rất mong các cơ quan chức năng sớm có biện pháp xử lý, chấm dứt ngay tình trạng khai thác vàng trái phép, nhằm bảo vệ môi trường và hạn chế nguy cơ xói lở đang hiện hữu từng ngày trên Sông Hồng.


                                                                                                                                      M.N